Thực hiện đánh giá cơ học hô hấp tại giường ở bệnh nhân có hội chứng suy hô hấp cấp tính

5/5 - (1 bình chọn)

Bài viết Thực hiện đánh giá cơ học hô hấp tại giường ở bệnh nhân có hội chứng suy hô hấp cấp tính được dịch bởi Bác sĩ Đặng Thanh Tuấn từ bài viết gốc: Implementing a bedside assessment of respiratory mechanics in patients with acute respiratory distress syndrome

Tóm tắt

Cơ sở: Mặc dù có tiềm năng trên lâm sàng, các phép đo cơ học hô hấp ở bệnh nhân suy hô hấp cấp (ARDS) hiếm khi được thực hiện trong thực hành thông thường. Chúng tôi đã giới thiệu một đánh giá hệ thống về cơ học hô hấp trong thực hành lâm sàng của chúng tôi. Sau năm sử dụng lâm sàng đầu tiên, chúng tôi đã đánh giá lại liệu các phép đo này có ảnh hưởng đến quản lý lâm sàng và các thông số sinh lý liên quan đến kết cục lâm sàng bằng cách so sánh giá trị của chúng trước và sau khi thực hiện xét nghiệm.

Phương pháp: Đánh giá cơ học hô hấp thành một bộ các phép đo tại giường để xác định cơ học phổi và thành ngực thụ động, đáp ứng với PEEP và mở phổi. Được thực hiện sớm ngay sau khi chẩn đoán ARDS. Các kết quả được cung cấp cho nhóm lâm sàng được sử dụng theo ý riêng của họ. Chúng tôi so sánh các cài đặt thông khí và các biến sinh lý trước và sau khi thử nghiệm. Các điểm cuối sinh lý học là chỉ số oxy hóa, khoảng chết, áp lực bình nguyên và áp lực đẩy.

Kết quả: 61 bệnh nhân liên tiếp có ARDS đã được ghi danh. Áp lực thực quản được đo ở 53 bệnh nhân (86,9%). Trong 41 bệnh nhân (67,2%), sau khi đo, cài đặt máy thở đã được thay đổi, thường bằng cách giảm PEEP hoặc bằng cách chuyển chế độ mục tiêu áp lực sang chế độ mục tiêu thể tích. Sau những thay đổi, chỉ số oxy hóa, áp lực bình nguyên và áp lực đẩy đã được cải thiện đáng kể, trong khi tỉ lệ khoảng chết không thay đổi. Chỉ số oxy hóa tiếp tục cải thiện trong 48 giờ tiếp theo.

Kết luận: Việc thực hiện một đánh giá cơ học hô hấp có hệ thống dẫn đến sự thích nghi thường xuyên của từng cá nhân trong các cài đặt máy thở và cho phép cải thiện các chỉ số oxy hóa và giảm nguy cơ bị quá căng phổi trong cùng một thời điểm.

Cơ sở

Bệnh nhân ARDS có nhiều mức độ suy giảm về cơ học hô hấp và phản ứng sinh lý khác nhau với một mức độ PEEP. Áp dụng chế độ thở máy giống nhau cho mọi bệnh nhân sẽ không đủ và đôi khi có thể có hại. Ví dụ, lợi ích tiềm năng của PEEP cao về cải thiện oxy và huy động phế nang nên cân bằng với những rủi ro gây ra bởi áp lực cao như suy giảm huyết động và quá căng phổi. Nói cách khác, cần phải cá nhân hoá mức PEEP bằng cách đánh giá mức độ an toàn và hiệu quả của nó đối với một bệnh nhân cụ thể [1]. Điều này đòi hỏi đánh giá sự trao đổi khí, cơ học hô hấp, và các biến động huyết động học. Ngoài ra, cơ học phổi và thành ngực cũng có thể giúp cá nhân hoá các cài đặt máy thở.

Mặc dù có tiềm năng trên lâm sàng, nhưng cơ học hô hấp dựa trên các áp lực đường thở và cơ học phổi và thành ngực dựa trên áp lực thực quản cũng nên được đánh giá một cách có hệ thống trong thực hành thông thường. Sự khác biệt này có thể được giải thích bằng các vấn đề kỹ thuật để đạt được áp suất xuyên phổi chính xác, do thiếu các quy trình chuẩn hóa, và do những thách thức trong việc kết hợp các kết quả của những phép đo này vào quản lý thông khí. Thậm chí tệ hơn, những nghiên cứu quan sát gần đây nhất về bệnh nhân ARDS cho thấy các thông số đơn giản như áp suất bình nguyên (Pplat) không được đo ở đa số bệnh nhân [3].

Để cải thiện việc tích hợp các phép đo cơ học hô hấp trong thực hành lâm sàng của chúng tôi, một nhóm các bác sĩ và các chuyên viên trị liệu về hô hấp (RTs) tại cơ sở của chúng tôi đã giới thiệu một bài đánh giá về cơ học hô hấp (như thực hiện kiểm tra chức năng phổi) một cách có hệ thống cho bệnh nhân ARDS và được thực hiện như một chương trình cải tiến chất lượng (QI). Mục đích là để cung cấp cho bác sĩ lâm sàng các đánh giá sinh lý có liên quan có thể hữu ích cho thực hành lâm sàng. Bởi vì nhu cầu điều chỉnh cài đặt máy thở có thể rất khác nhau, chương trình này không bao gồm các khuyến cáo lâm sàng hoặc các hướng dẫn cụ thể liên quan đến các phép đo này.

Sau khi thực hiện thử nghiệm có hệ thống trong thực hành lâm sàng của chúng tôi trong 1 năm, chúng tôi đã cố gắng đánh giá xem có ảnh hưởng gì không. Chúng tôi đã tìm kiếm xem liệu có sự thay đổi nào trong cài đặt máy thở. Chúng tôi cũng đã đánh giá xem những thay đổi quan sát đã thay đổi các biến sinh lý có liên quan đến tử vong và chúng tôi đã cố gắng hiểu xem những thay đổi quan sát có phù hợp với các phép đo hay không.

Phương pháp

Thiết kế và cài đặt

Đây là một nghiên cứu hồi cứu tác động của chương trình 1 năm (xem dưới đây) nhằm mục đích đánh giá một cách có hệ thống cơ học hô hấp ở bệnh nhân ARDS bằng cách so sánh các cài đặt thông khí và các biến sinh lý có liên quan trước và sau khi thực hiện phép đo. Chương trình được quyết định bởi khoa chăm sóc đặc biệt tại một bệnh viện giảng dạy (Bệnh viện St Michael, Toronto, ON, Canada) và được thực hiện trong cả hai đơn vị chăm sóc tích cực nội khoa và chấn thương-phẫu thuật thần kinh (ICUs). Lưu ý, các phép đo được nhập vào sổ đăng ký cho các nghiên cứu trong tương lai.

Thực hiện đánh giá cơ học hô hấp trên lâm sàng

Thủ tục của thử nghiệm được xác định thông qua thảo luận giữa các bác sĩ ICU, các bác sĩ nội trú và chuyên viên hô hấp. Một nhóm gồm 22 người (3 bác sĩ, 2 nội trú và 17 RTs) được tuyển dụng tự nguyện để tạo điều kiện thực hiện bài kiểm tra theo bốn khía cạnh:

a. Để nâng cao nhận thức và hiểu biết về giám sát cơ học hô hấp, các buổi giáo dục bao gồm các bài giảng, bàn tập ôn và thực hành, và các vòng phản hồi đã được cung cấp cho các bác sĩ lâm sàng của ICU. Các buổi giáo dục tập trung vào việc giải thích tầm quan trọng của việc đo lường cơ học hô hấp, cách tiếp cận kỹ thuật để đo lường, ý nghĩa sinh lý và lâm sàng của các biến đo được dựa trên các bằng chứng khoa học, và các hạn chế của các biến đó. Chúng tôi không đề xuất sử dụng một tham số duy nhất để thay đổi cơ sở của cài đặt máy thở; chúng tôi đề xuất kết hợp nhiều biến số (ví dụ áp suất đường thở, Pplat, áp lực đẩy [Pdriv], cơ học thành ngực, khả năng huy động, oxy hóa, và đáp ứng huyết động học cho PEEP) vào bệnh sử của bệnh nhân và để nhóm nghiên cứu quyết định điều gì là tốt nhất cho bệnh nhân.

b. Để chuẩn hóa các thủ tục, chúng tôi đã phát triển các quy trình bằng văn bản để hướng dẫn việc đặt ống thông thực quản và các phép đo có hệ thống liên quan.

c. Để đơn giản hóa các tính toán, chúng tôi đã phát triển một định dạng Portable Document Format (PDF, Adobe Systems, San Jose, CA, USA) để tự động tính toán các thông số sinh lý và tạo ra một báo cáo lâm sàng.

d. Báo cáo lâm sàng này được cung cấp cho những người chăm sóc phụ trách bệnh nhân.

Tiến trình ghi danh bệnh nhân để thực hiện phép đo

Tất cả các bệnh nhân được nhận vào ICUs đáp ứng định nghĩa Berlin của ARDS [4] và nhận được thông khí cơ học xâm lấn đã đủ điều kiện. Một cuộc kiểm tra hàng ngày được thực hiện, chủ yếu vào các ngày trong tuần. Nó được làm theo ý kiến của nhóm lâm sàng để quyết định thực hiện các phép đo, đặt ống thông thực quản, và chấp nhận những thay đổi có thể trong an thần hoặc thuốc liệt cơ. Việc đặt ống thông thực quản được khuyến cáo khi PaO2/FiO2 ≤ 200 mmHg. Trong nhóm bệnh nhân ARDS nhẹ (tức là PaO2/FiO2 > 200 mmHg), ống thông được đặt theo sự quyết định của nhóm nghiên cứu lâm sàng. Trong các trường hợp sau, nhóm nghiên cứu đã thảo luận về những lợi ích của việc đo lường trên cơ sở từng trường hợp cụ thể: (a) sự bất ổn định huyết động nặng (tức là, > tăng liều 30% trong vòng 6 giờ qua của thuốc vận mạch hoặc cần > 0,5 μg/kg/phút norepinephrine); hoặc (b) một vấn đề về thực quản được biết đến, như xuất huyết tiêu hóa trên, hoặc bất kỳ chống chỉ định nào khác đối với việc đặt ống dạ dày.

Đo đạc cơ học hô hấp

Mỗi bệnh nhân tham gia được đo cơ học hô hấp thực hiện bởi một hoặc hai RT và/hoặc BS nội trú đã được đào tạo (tùy theo tình trạng sẵn có của bác sỹ lâm sàng) theo một quy trình chuẩn. Hơn 20 bác sỹ lâm sàng được coi là người sử dụng đã được đào tạo. Các bệnh nhân được đo ở giai đoạn sớm của ARDS, và tất cả đều đã được an thần sâu và thường dùng thuốc liệt cơ. Thêm an thần có hoặc không có liệt cơ có thể là tạm thời cần thiết để ức chế hoặc giảm thiểu nhịp thở tự nhiên. Cách tiếp cận này đã được chấp nhận như là một phần của thực hành lâm sàng của chúng tôi để có được các phép đo đáng tin cậy của cơ học hô hấp thụ động. Tuy nhiên, các quyết định an thần sâu hơn và/hoặc liệt cơ cho một bệnh nhân được thực hiện theo ý kiến hội chẩn của đội lâm sàng. Sự vắng mặt của nỗ lực tự phát đã được khẳng định bởi sự vắng mặt của một áp lực đường thở (Paw) âm trong thời gian ngưng cuối thì thở ra 3 giây và sự có mặt của sự dao động Pes dương khi thở theo chu kỳ. Hệ thống thông khí điều khiển thể tích (VCV) đã được sử dụng trong các phép đo với thể tích khí lưu thông chuẩn hóa là 6 ml/kg trọng lượng cơ thể dự đoán (PBW), lưu lượng thở không đổi là 50-60 L/phút, và dừng lại 0.3 giây vào cuối của thì hít vào. Tần số hô hấp (RR) được cài đặt để duy trì một thông khí phút (VE) tương tự như mức trước khi đo. PEEP và FiO2 được duy trì ở mức lựa chọn lâm sàng. Các trị số áp lực đường thở, lưu lượng, thể tích đã được lấy trực tiếp từ hệ thống theo dõi thở máy. Pes được đo bằng cách sử dụng một ống thông với bong bóng chứa khí (CooperSurgical, Trumbull, CT, USA) với một bộ chuyển đổi áp suất kết nối với một màn hình tại giường (tương tự như đo áp lực tĩnh mạch trung tâm). Đo Pes được khuyến cáo là một thành phần của phép thử đối với bệnh nhân có tỷ số PaO2/FiO2 ≤ 200 mmHg, nhưng quyết định đặt ống thông lại do các bác sỹ lâm sàng quyết định. Hiệu lực của Pes đã được khẳng định bằng cách sử dụng một bài kiểm tra tắc nghẽn trong khi thở tự phát (thử nghiệm trước) hoặc thử nghiệm tắc nghẽn áp lực dương bằng cách nén ngực bằng tay khi thở thụ động [2,5]. Sự đàn hồi, sức đề kháng, và các biến khác được tự động tính bằng cách sử dụng mẫu PDF được lập trình. Quá trình tiến hành các phép đo như sau:

a. Cơ học hô hấp dựa trên Paw được đo bằng cách sử dụng ngưng cuối thì thở ra và cuối thì hít vào trong 1-2 giây. Không có rò rỉ khí trong lần ngưng cuối kỳ hít vào được xác nhận bằng sự tương đương của VT thở ra giữa nhịp thở được làm ngưng với một nhịp thở khác không thực hiện làm ngưng cuối kỳ hít vào trước đó. Áp lực dương cuối kỳ thở ra tổng (PEEPtot), áp lực đỉnh (Ppeak), và áp lực bình nguyên (Pplat) đã được ghi lại. PEEP nội sinh, Pdriv (Pplat – PEEPtot), độ giãn nở hệ thống hô hấp, và kháng lực đường thở được tính toán tự động.

b. Cơ học phổi và thành ngực dựa trên Pes [2] được đo đồng thời bằng các thủ thuật ngưng cuối thì thở ra và cuối thì hít vào. Áp lực xuyên phổi ở cuối thì thở ra (PL,end-exp) và áp lực xuyên phổi ở cuối thì hít vào (PL,end-insp), độ giãn nở phổi, độ giãn nở thành ngực, và tỷ số của sự đàn hồi của phổi đối với sự đàn hồi hệ hô hấp được tính toán tự động. PL, trừ khi được chỉ ra cụ thể như elastance-derived transpulmonary plateau pressure, được tính bằng cách đo trực tiếp Pes.

c. Oxygen hóa và đáp ứng huyết động với PEEP được đánh giá bằng cách tăng PEEP từ 3-5 cmH2O (tốt nhất là 5 cmH2O) từ mức PEEP lâm sàng nếu Pplat < 35 cmH2O (trong phần lớn các trường hợp). PEEP giảm từ 3-5 cmH2O nếu Pplat đạt đến 35 cmH2O hoặc trong điều kiện dung nạp kém huyết động. Chúng tôi báo cáo thủ tục này như là một thử nghiệm PEEP gia tăng. FiO2 được giữ không đổi để so sánh sự thay đổi trong PaO2/FiO2.

d. Tái xẹp phế nang được ước tính bằng cách sử dụng phương pháp giảm PEEP đơn giản hóa bằng 1 nhịp thở (Hình 1) được thực hiện trong vòng 10-15 giây từ PEEP cao được sử dụng trong bước trước. Thủ thuật thở ra kéo dài (6-9 giây) đã được thực hiện trong khi đột ngột giảm PEEP xuống 10 cmH2O từ mức cao xuống mức thấp một lần. Vì VT hít vào không thay đổi, sự khác biệt về giá trị VT thở ra giữa VT thở ra được hiển thị ngay sau khi giảm PEEP và nhịp thở trước khi thay đổi PEEP được gọi là sự thay đổi thể tích phổi tổng từ PEEP cao đến PEEP thấp. Cùng lúc đó, sự thay đổi về thể tích phổi ước lượng được đánh giá bởi tích số của độ giãn nở hô hấp ở PEEP thấp (hoặc không PEEP) và sự thay đổi áp lực (nghĩa là 10 cmH2O thay đổi trong PEEP). Khi thay đổi thể tích phổi tổng lớn hơn giá trị thể tích phổi ước lượng này, sự khác biệt được xem như một thể tích phổi tái xẹp ước tính (Vder, derecruitment lung volume). Một Vder cao (ví dụ, ≥ 150 ml) do giảm PEEP cho thấy PEEP có hiệu quả trong việc huy động phổi (hoặc trong việc duy trì phổi mở). Nguyên nhân của cách tiếp cận này đã được báo cáo trước đây, mặc dù phương pháp hiện tại đã được đơn giản hóa để làm cho việc sử dụng có thể thực hiện nhanh tại giường [6]. Lưu ý, chúng tôi đã giảm PEEP để ước tính tái xẹp thay vì tăng PEEP để ước lượng huy động vì chúng tôi cho rằng việc tái xẹp có thể xảy ra nhanh hơn so với huy động và dễ phát hiện hơn. Tuy nhiên, những đơn giản hóa kỹ thuật này vẫn chưa được xác nhận đầy đủ và điều này đã được làm rõ cho các bác sĩ lâm sàng.

Một báo cáo lâm sàng sau đó được tạo tự động với các ngưỡng tham chiếu từ tài liệu cho mục đích chẩn đoán. Vào cuối các phép đo, cài đặt máy thở ban đầu đã được tiếp tục, và báo cáo lâm sàng đã được trao cho nhóm lâm sàng phụ trách bệnh nhân. Các bác sĩ lâm sàng sau đó quyết định có nên thay đổi cài đặt máy thở nếu thấy cần thiết. Không có khuyến cáo điều trị nào kèm theo báo cáo, nhóm nghiên cứu được sử dụng miễn phí và tích hợp dữ liệu vào quá trình ra quyết định mang tính gắn kết hơn. Mục đích của thủ thuật này là cung cấp thông tin tin cậy về chức năng phổi của bệnh nhân ARDS và có thể cho phép các bác sĩ lâm sàng điều chỉnh cài đặt thông khí.

Hình 1 Minh hoạ về thủ thuật giảm PEEP đơn giản để dự đoán thể tích phổi tái xẹp. Trong ví dụ này, tần số hô hấp giảm xuống 10 lần/phút để cho phép kéo dài thời gian thở ra.
Hình 1 Minh hoạ về thủ thuật giảm PEEP đơn giản để dự đoán thể tích phổi tái xẹp. Trong ví dụ này, tần số hô hấp giảm xuống 10 lần/phút để cho phép kéo dài thời gian thở ra.

Ghi danh bệnh nhân để phân tích hiện tại

Những bệnh nhân đã tham gia vào chương trình trong năm đầu tiên thực hiện đã đủ điều kiện cho nghiên cứu này. Những bệnh nhân có kết quả của cơ học hô hấp không được cung cấp cho nhóm lâm sàng sau khi các phép đo do các vấn đề kỹ thuật (chẳng có báo cáo nào được tạo ra để tham khảo) đã bị loại khỏi nghiên cứu.

Endpoints của phân tích

Chúng tôi thiết kế một kế hoạch thống kê để quyết định một sự thay đổi mà chúng tôi muốn thử nghiệm. Câu hỏi đầu tiên là xác định tỷ lệ bệnh nhân thay đổi cài đặt thông khí sau khi đo. Chúng tôi cũng muốn xác định xem những thay đổi có phù hợp với các phép đo hay không. Các điểm cuối có liên quan là những ảnh hưởng của những thay đổi này đối với các thông số sinh lý liên quan đến tử vong, cụ thể là chỉ số oxy hóa (OI = mean Paw × FiO2 × 100/PaO2) [7, 8], ước tính khoảng chết sinh lý [9], Pplat, và Pdriv [10]. OI kết hợp cường độ của sự trợ giúp của máy thở theo áp lực trung bình đường thở và tổng lượng ôxy động mạch. OI thấp có nghĩa là cần một cường độ trợ giúp tương đối nhỏ cho mỗi milimet thủy ngân PaO2, trong khi OI cao nghĩa là áp suất phát và/hoặc FiO2 cao cần cho mỗi milimet thủy ngân PaO2. Tỷ lệ khoảng chết được tính bằng cách sử dụng phương pháp Enghoff của phương trình Bohr với ước lượng chi phí năng lượng nghỉ ngơi bằng cách sử dụng phương trình Harris-Benedict và giả định rằng thang số hô hấp bằng 0,8. Đáng chú ý là hai thông số này, OI và tỉ lệ khoảng chết, không phải là trực tiếp cho các bác sĩ lâm sàng. Pdriv, được tính bằng sự khác biệt về Paw giữa sự áp lực nghỉ cuối thì hít vào từ 1 đến 2 giây (tức là Pplat) và áp lực nghỉ cuối kỳ thở ra (tức là PEEPtot), được gọi là Pdriv trong nghiên cứu này. Tuy nhiên, cho mục đích nghiên cứu hồi cứu của chúng tôi, chúng tôi nhận thấy rằng PEEPtot không phải lúc nào cũng được các bác sỹ đánh giá và ghi chép trước và sau khi đo và Pplat đôi khi được ước lượng từ Ppeak ở những bệnh nhân được thông khí có kiểm soát bằng áp lực (PCV). Pdriv ước tính trước và sau khi đo có thể khác một chút so với Pdriv trong suốt quá trình đo, và nó được tính như sự khác biệt giữa Pplat và PEEP (không phải PEEPtot) và được gọi là ΔP [10].

Chúng tôi cũng đã tính toán VE điều chỉnh (tức là, VE cho PaCO2 là 40 mmHg) như một đại diện của khoảng chết [4]. Lấy cảm hứng từ OI, chúng tôi đề xuất một chỉ số mới – “Oxygenation/Stretch Index” (O/SI). So sánh nó với OI, chúng tôi thay thế các Paw trung bình với Pdriv, và chuyển mẫu số thành tử số để tính toán dễ dàng hơn. Sử dụng Pdriv thay vì dùng Paw trung bình làm cho chỉ số này ít phụ thuộc vào loại chế độ thông khí (VCV so với PCV).

Mẫu số có thể được gọi là “chi phí” của thông khí cơ học, trong khi tử số là “lợi ích”. Vì vậy, một O/SI thấp cho thấy “tỷ lệ lợi ích/chi phí” thấp của thông khí cơ học; có nghĩa là, lợi ích đạt được bằng cách trả chi phí tương đối cao, trong khi O/SI cao cho thấy tỷ lệ lợi ích/chi phí cao. Cả hai VE điều chỉnh và O/SI trước và sau khi đo được so sánh. O/SI không được cung cấp cho các bác sĩ lâm sàng nhưng đã được tính toán cho nghiên cứu.

Thu thập dữ liệu và phân tích thống kê

Chúng tôi thu thập thông tin bằng cách xem xét các thông tin lâm sàng cho các đặc điểm nhân khẩu học, sinh lý, và X quang của bệnh nhân; yếu tố nguy cơ ARDS; các bệnh đi kèm; cài đặt thông khí; phân tích khí máu động mạch (ABG); và ghi lại các thông số về hô hấp (ví dụ VE và Pplat) trước và sau khi đo (tức là, trước khi áp dụng và sau kiểm tra). Chúng tôi sử dụng các ABG gần thời gian đo nhất nhưng các phép đo cách xa ít nhất 1 giờ, cũng như các cài đặt thông khí và các thông số hô hấp tương ứng. Các biến sinh lý chi tiết thu được trong quá trình đo cũng được thu thập.

Các chi tiết của phân tích thống kê được báo cáo trong các tệp bổ sung. Phương pháp thống kê cũng được mô tả trong các ghi chú của các bảng. Đáng chú ý, bởi vì chúng tôi đã quyết định các biến số được thử nghiệm một cách ưu tiên trong kế hoạch thống kê, nên chúng tôi đã quyết định không sử dụng một điều chỉnh Bonferroni, điều này làm gia tăng nguy cơ sai sót loại II [11].

Kết quả

Trong năm thực hiện đầu tiên (tháng 8 năm 2014 đến tháng 8 năm 2015), 62 bệnh nhân đã được ghi danh và đã thực hiện các phép đo. Một bệnh nhân bị loại khỏi cuộc nghiên cứu do lỗi đầu vào rõ ràng trong phép đo (dữ liệu không được các bác sỹ lâm sàng sử dụng).

Nhóm nghiên cứu bao gồm 61 bệnh nhân. Các đặc điểm chính được mô tả trong Bảng 1. 54 bệnh nhân (88,5%) được đo trong 48 giờ nhận dạng ARDS, và phần còn lại được đo từ 48 đến 120 giờ sau khi nhận dạng ARDS. Lý do chính cho sự chậm trễ giữa xác định ARDS và các phép đo thực hiện là sự mất ổn định về huyết động học. Cơ học hô hấp dựa trên Paw được đo ở tất cả các bệnh nhân, và ống thông thực quản được đặt ở 54 bệnh nhân (88,5%). Ở một bệnh nhân, ống thông không qua được cơ vòng thực quản trên, và ở một ống khác, ống thông được đặt một cách tự động với sự trợ giúp của nội soi dạ dày. Pes được đo trong 53 (86,9%) của 61 bệnh nhân. Một test kiểm tra tắc nghẽn dương tính được thực hiện ở tất cả các bệnh nhân, với tỷ lệ thay đổi Pes và Paw trong lần đóng cuối thì thở ra (ΔPes/ΔPaw) là 1,1 ± 0,2 (trung bình ± SD). Bảy bệnh nhân (11,5%) được đo không có ABG để đánh giá phản ứng oxy hóa, và ba bệnh nhân (5.0%) được đo mà không thực hiện một thủ thuật giảm PEEP để ước lượng thất thoát phế nang. Trong suốt quá trình đo, 21 bệnh nhân (34,4%) nhận được thuốc an thần bổ sung, và 3 bệnh nhân (5,0%) yêu cầu các thuốc chẹn thần kinh cơ bổ sung để ức chế hoặc giảm thiểu hít thở tự nhiên. Tử vong 30 ngày, tỷ lệ tử vong ở ICU và tỉ lệ tử vong ở bệnh viện là 37,7%, 37,7% và 41,0% theo thứ tự. Thời gian ICU và thời gian ở bệnh viện là 13,5 [8,8-29,0] và 19,0 [10,0-40,0] ngày.

Cài đặt thông khí

So sánh kết quả sau khi đo với trước khi đo, cài đặt máy thở đã được thay đổi ở 41 bệnh nhân (67,2%) và không thay đổi ở những bệnh nhân khác. Các thay đổi bao gồm chuyển chế độ mục tiêu áp lực sang chế độ mục tiêu thể tích ở 19 bệnh nhân (31,1%), giảm áp lực đỉnh hít vào ở 4 bệnh nhân đang dùng chế độ mục tiêu áp lực, giảm PEEP ở 22 bệnh nhân và tăng PEEP ở 9 bệnh nhân (hình 2). VT thấp hơn một chút so với biện pháp trước (Bảng 2).

Bảng 1
Bảng 1
Hình 2: Biểu đồ a cho thấy các điều chỉnh lâm sàng về PEEP và ảnh hưởng đến chỉ số oxy hóa (OI) (n = 59). Biểu đồ b bệnh nhân được phân loại theo ba nhóm theo sự thay đổi mức PEEP của họ. Điều chỉnh Bonferroni đã không được sử dụng.
Hình 2: Biểu đồ a cho thấy các điều chỉnh lâm sàng về PEEP và ảnh hưởng đến chỉ số oxy hóa (OI) (n = 59). Biểu đồ b bệnh nhân được phân loại theo ba nhóm theo sự thay đổi mức PEEP của họ. Điều chỉnh Bonferroni đã không được sử dụng.

Kết cục sinh lý

So sánh kết quả sau khi đo với các giá trị trước đo (Bảng 2), cả OI và áp lực căng (tức là Pplat và ΔP) đều giảm đáng kể. Đo ở cùng mức FiO2, PaO2/FiO2 và O/SI tăng đáng kể. Ở những bệnh nhân mà PEEP tăng, PaO2/FiO2 tăng từ 124 ± 78 mmHg lên 173 ± 89 mmHg (P = 0,010), trong khi Paw trung bình tăng từ 18 ± 3 cmH2O lên 21 ± 3 cmH2O (P <0,0005). Ở bệnh nhân PEEP bị giảm, PaO2/FiO2 vẫn ổn định (150 ± 64 mmHg so với 153 ± 70 mmHg, P = 0,772), trong khi Paw trung bình giảm từ 20 ± 4 cmH2O xuống 16 ± 4 cmH2O (P <0,0005) (Hình 2). Trung bình, cho cả nhóm, PaO2/FiO2 được cải thiện, trong khi Paw trung bình giảm.

Phân số khoảng chết sinh lý ước lượng và VE đã điều chỉnh vẫn không thay đổi (Bảng 2). Độ pH động mạch, mức độ bicarbonate, nhịp tim, và áp lực động mạch trung bình vẫn không thay đổi.

Bảng 2
Bảng 2

Thay đổi cài đặt máy thở liên quan đến phép đo

Để xác định liệu các điều chỉnh lâm sàng quan sát trong PEEP có phù hợp với kết quả của các test cơ học hô hấp, chúng tôi chia bệnh nhân thành ba nhóm theo PEEP đã giảm, không thay đổi hoặc tăng sau bởi các bác sĩ lâm sàng khi điều trị so với điều trị trước. So sánh các biến sinh lý giữa các nhóm được trình bày trong Bảng 3.

Ba nhóm này có sự khác nhau đáng kể về bốn tham số, với giá trị gia tăng dần cho thấy những giá trị này có thể là lý do để thực hiện thay đổi. Pplat đường thở và elastance-derived transpulmonary Pplat cao hơn ở nhóm giảm PEEP so với nhóm PEEP không thay đổi. PL,end-exp không khác nhau giữa các nhóm.

Sự thay đổi Pdriv và Pdriv phổi trong quá trình thử nghiệm PEEP gia tăng thể hiện xu hướng nhất quán giữa ba nhóm, và Pdriv phổi cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.

Vder thấp hơn trong nhóm với PEEP giảm so với nhóm PEEP tăng.

Phân tích tương quan của Spearman cũng khẳng định Pplat, elastance-derived transpulmonary Pplat, và sự thay đổi Pdriv phổi tương quan với sự khác biệt PEEP trước và sau khi đo, một lần nữa gợi ý rằng số lượng và hướng của sự thay đổi PEEP có thể được giải thích bằng các giá trị cơ học hô hấp.

Bảng 3
Bảng 3

Bàn luận

Theo hiểu biết của chúng tôi, đây có thể là lần đầu tiên chứng minh rằng việc kiểm tra hệ thống hô hấp có hệ thống có thể được thực hiện với đầy đủ hiệu lực và thời gian trong ICUs như một công cụ giám sát được sử dụng để điều chỉnh thông khí. Điều này đã cung cấp các thông số sinh lý cho bác sĩ lâm sàng và giúp xác định liệu pháp thông khí ở bệnh nhân ARDS, như được chỉ ra bởi sự thay đổi trong cài đặt thông khí và trong các biến sinh lý quan sát được sau khi thử nghiệm. Thật vậy, oxy hóa có thể được cải thiện bằng cách sử dụng áp lực đường thở và áp lực căng thấp hơn, kết quả là bất ngờ, như được chỉ ra bởi những thay đổi trong OI, O/SI, Pplat, và ΔP. Những sửa đổi như vậy sẽ không được thực hiện nếu không có một đánh giá có hệ thống.

Hiệu lực của phép đo

Các phép đo Pes trong thực hành lâm sàng thông thường, nằm ngoài lĩnh vực nghiên cứu thường được coi là một thách thức [2]. Bằng cách thực hiện các buổi giáo dục, các thủ tục chuẩn và một mẫu điện tử để tính toán tự động, các phép đo Pes đã được thực hiện trong các ICU của chúng tôi bởi một số chuyên gia chăm sóc sức khoẻ (RT, bác sỹ) không phải là các nhà nghiên cứu có kinh nghiệm. Tỷ lệ ΔPes/ΔPaw trong bài kiểm tra tắc nghẽn áp suất dương – một phương pháp được sử dụng để xác định vị trí thích hợp của ống thông thực quản và các phép đo Pes – đã nhất quán trên toàn bộ nhóm nghiên cứu của chúng tôi và rất gần với sự thống nhất, cho thấy Pes thu được đáng tin cậy và được cung cấp một biện pháp hợp lệ về sự thay đổi áp suất màng phổi. Các tỷ số ΔPes/ΔPaw này cũng đã được khẳng định bằng cách sử dụng thử nghiệm tắc nghẽn chống lại nỗ lực hít vào [5] ở sáu bệnh nhân sau khi bắt đầu lại các nỗ lực tự phát.

Thay đổi chế độ thở

Chế độ thông khí thường được chuyển từ chế độ mục tiêu áp lực sang chế độ mục tiêu thể tích, có thể có hiệu quả trực tiếp của kiểm tra. Một sự giảm VT đáng kể về mặt lâm sàng cũng được quan sát sau khi đo. Mặc dù không có bằng chứng cho thấy rằng một chế độ là tốt hơn [13], chế độ VCV cung cấp một số tính năng thuận lợi hơn so với chế độ PCV:

a. Việc kiểm soát chặt chẽ VT ở một giá trị đích đã được chứng minh có lợi cho sự sống sót [14].

b. Điều khiển thể tích cho phép dễ dàng theo dõi cơ học hô hấp. Bằng cách cài đặt khoảng thời gian tạm dừng thở từ 0,3-0,5 giây, người ta có thể theo dõi Pplat theo thời gian thực cho mỗi hơi thở cũng như xu hướng của nó, dẫn đến ước tính dễ dàng các thông số thiết yếu như Pdriv, độ giãn nở và sức cản đường thở. Ppeak đặt trong PCV thường được sử dụng như là một đại diện của Pplat, có khả năng cung cấp một phương pháp đơn giản để hạn chế Pdriv. Cách tiếp cận này có thể đánh giá quá cao đối với Pplat khi lưu lượng khí thở vào không trở về zero khi kết thúc hít vào; tuy nhiên, nó có thể đánh giá thấp Pplat với sự có mặt của nỗ lực hít vào của bệnh nhân.

c. Bằng cách sử dụng thời gian ngưng thở thì hít vào với lưu lượng cao và hằng định, VCV có thể cải thiện việc loại bỏ carbon dioxide [15].

Thay đổi PEEP

Một sự thay đổi quan trọng quan sát thấy là sự cá nhân hóa của PEEP, như được mô tả trong hình 2. Terragni et al. mô tả cách cơ học hệ thống hô hấp có thể giúp ngăn ngừa tổn thương phổi ở bệnh nhân ARDS [12]. Như trình bày trong Bảng 3, các bác sỹ lâm sàng đã sử dụng các biến phản ánh nguy cơ quá căng phổi, đáp ứng với PEEP (xem phản ứng oxy hoá cá nhân đối với PEEP ở Hình 3) và khả năng huy động để điều chỉnh PEEP, chứ không phải là phản ánh nguy cơ của xẹp phổi (PL,end-exp).

Hình 3. Các đáp ứng oxy hoá cá nhân đối với thí nghiệm PEEP tăng dần.
Hình 3. Các đáp ứng oxy hoá cá nhân đối với thí nghiệm PEEP tăng dần.

Tác động sinh lý

Sự thay đổi trong cài đặt máy thở, đặc biệt là mức giảm PEEP thường xuyên, cuối cùng dẫn đến giảm Pplat và Pdriv, đồng thời cải thiện oxy hóa, OI và O/SI (Bảng 2). Kết quả này là khá bất ngờ. Chúng tôi ngạc nhiên bởi đáp ứng đối với sự thay đổi của PEEP (Hình 3). Những kết quả này khác với kỳ vọng thông thường của những ảnh hưởng của PEEP, nhưng trên thực tế, chúng trông khá giống với các kết quả nghiên cứu ngẫu nhiên được công bố gần đây [16]. Sự oxy hóa được cải thiện nhưng không phải là điểm cuối sinh lý chính trong nghiên cứu của chúng tôi vì một vài lý do. Với Paw cao, cải thiện oxy hóa có thể đạt được bằng cách giảm cung lượng tim và shunt, có thể làm trầm trọng thêm sự cung cấp oxy [17]. Với áp lực cao, cải thiện oxy hóa có liên quan đến tử vong tương tự [18] hoặc thậm chí tử vong tồi tệ hơn [14, 19]. OI xem xét cả Paw và oxy hóa, và nó đã được hiển thị có liên quan đến sự sống còn cũng như ΔP [8, 10, 20, 21]. Chúng tôi cũng phát hiện ra rằng O/SI, như là một chỉ số mới để đánh giá tỷ lệ lợi ích/chi phí của thông khí cơ học, đã được cải thiện đáng kể sau khi đo. Mặc dù không có số liệu để hỗ trợ sự liên quan giữa O/SI và tỷ lệ sống còn, chúng tôi đã tách bệnh nhân trong nhóm theo kết cục của bệnh viện và thấy rằng O/SI (tính bằng số liệu từ các phép đo) ở những người sống sót cao hơn đáng kể so với những người không sống sót (14,6 [10.9-18.8] và 8.8 [6.0-12.6], tương ứng, P <0.0005). Chúng tôi cho rằng O/SI, tương tự như OI, có thể có ý nghĩa hơn so với ôxy hóa, chính nó liên quan đến kết cục lâm sàng.

Thời điểm so sánh

Chúng tôi đã quyết định tập trung so sánh các biến sinh lý của chúng tôi vào 1 giờ sau khi các phép đo để đảm bảo tốt hơn việc điều chỉnh các cài đặt thông khí và tác động sinh lý có thể là thứ yếu đối với các phép đo. Sau đó, chế độ thông khí có thể được chuyển sang chế độ hỗ trợ một phần. Ngoài ra, so sánh trung bình Paw (bắt buộc để tính OI) hoặc Pdriv trong chế độ mục tiêu áp lực sẽ trở thành thách thức khi bệnh nhân hồi phục nỗ lực thở tự nhiên.

Tuy nhiên, chúng tôi cũng đã xem xét dữ liệu ở 24 giờ và 48 giờ. Sự cải thiện trong các biến sinh lý đã được thống nhất, được chỉ định bởi OI dần dần ở 24 và 48 giờ (12,4 ± 7,1 và 10,2 ± 0,9, tương ứng, P = 0,016) so với lúc 1 giờ sau khi đo. Lưu ý, 16 và 21 bệnh nhân (26,2% và 34,4%) có nỗ lực tự thở, được xác định là RR thực tế vượt quá RR đã được đặt trước hoặc được hỗ trợ một phần, ở 24 và 48 giờ.

Các hạn chế

Nghiên cứu của chúng tôi có những hạn chế. Thứ nhất, mặc dù chúng tôi đã cố gắng đảm bảo rằng các phép đo có thể dựa trên các nguyên lý sinh lý hợp lý, nhưng chúng tôi đã thiết lập mối quan hệ giữa các phép đo và thay đổi các thiết lập do tính chất của một nghiên cứu quan sát. Thứ hai, không có nhóm chứng, chúng tôi không thể mô tả bất kỳ kết quả nào là kết cục. Thứ ba, kết quả được giới hạn trong một trung tâm duy nhất. Thứ tư, có một số dữ liệu còn thiếu trong quá trình đánh giá, chẳng hạn như đáp ứng với PEEP và khả năng huy động. Thứ năm, phương pháp đơn giản để ước lượng việc tái xẹp tại giường yêu cầu cần xác nhận thêm nữa. Thứ sáu, mặc dù chúng tôi cố gắng giảm thiểu ảnh hưởng trực tiếp của người khởi xướng dự án (LC, LB) đối với các thiết lập thông khí, các tương tác thường xảy ra khi bắt đầu dự án và rất khó để xác định được ảnh hưởng chính xác của chúng. Những tương tác này nhằm khắc phục các rào cản kỹ thuật và kiến thức để đo lường và giải thích các cơ học hô hấp trong thực hành lâm sàng.

Kết luận

Một bài kiểm tra cơ học hô hấp có thể được áp dụng trong thực hành lâm sàng và cung cấp các thông số sinh lý cho bác sĩ lâm sàng. Nó dẫn đến việc cá nhân hoá các cài đặt máy thở ở bệnh nhân ARDS cải thiện các điểm sinh lý có liên quan đến kết cục lâm sàng và nó cho phép giảm áp lực cần thiết để duy trì oxy hóa.

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây