Sử dụng lâm sàng các xét nghiệm đông máu (Uptodate)

Bài viết Sử dụng lâm sàng các xét nghiệm đông máu (Uptodate) của tác giả James L Zehnder, MD; được biên dịch bởi Bác sĩ Nguyễn Duyên, Bác sĩ tại Bệnh Viện Nhi Trung Ương Việt Nam.

1. Giới thiệu

Chủ đề này xem xét các nguyên tắc và cách giải thích kết quả của các xét nghiệm
đông máu thường được sử dụng trong lâm sàng.

2. Đảm bảo kết quả xét nghiệm chính xác

2.1 Thu thập và xử lý mẫu

Các xét nghiệm đông máu phải được thực hiện trên huyết tương chứ không phải huyết thanh, vì các yếu tố đông máu bị loại bỏ trong quá trình ly tâm lấy huyết thanh cùng với các thành phần đông máu tế bào.

Xét nghiệm đông máu chính xác đòi hỏi mẫu máu phải được thu thập và xử lý thích hợp. Các thông số sau rất quan trọng để đảm bảo độ chính xác:

Ống thu thập – Mẫu xét nghiệm đông máu phải được lấy vào một ống có chứa chất chống đông mà chất đó có thể dễ dàng được loại bỏ khi tiến hành xét nghiệm. Dung dịch natri citrat (3,2% natri citrat) trong ống có nắp màu xanh lam nhạt được sử dụng phổ biến nhất. Lượng dung dịch citrat trong ống cố định để có tỷ lệ thích hợp giữa một phần dung dịch citrat với chín phần máu toàn phần khi ống được lấy đúng thể tích mục tiêu. Bệnh nhân bị đa hồng cầu cần bỏ bớt lượng citrat do thể tích huyết tương giảm.

Thể tích máu – Ống phải chứa đủ máu để cho tỷ lệ citrate thích hợp với máu toàn phần. Các ống lấy không đủ thể tích có thể kéo dài thời gian đông máu giả tạo. Thể tích máu không được ít hơn 90% thể tích mục tiêu [2].

Trộn mẫu – Vì các ống chứa dung dịch natri citrat lỏng, cần đảo nhẹ chúng vài lần càng sớm càng tốt sau khi máu ra khỏi tĩnh mạch để trộn dung dịch citrat với máu. Không nên lắc ống mạnh vì điều này có thể gây tán huyết và dẫn đến kết quả không chính xác.

Bảo quản mẫu – Mẫu phải được xét nghiệm kịp thời để tránh làm giảm chất lượng của các yếu tố đông máu không bền (đặc biệt là yếu tố V, VIII và protein S); Sự suy giảm đáng kể của các yếu tố đông máu có thể dẫn đến việc kéo dài thời gian đông máu một cách giả tạo [3]. Tổng thời gian từ khi lấy mẫu và xét nghiệm không được quá 24 giờ. Các ống máu toàn phần không được làm đông lạnh trước khi tách huyết tương khỏi tế bào.

2.2 Nguồn gây nhiễu

Kết quả không chính xác có thể xảy ra nếu có những điều sau:

Lấy mẫu từ đường tiêm/truyền tĩnh mạch – Tốt nhất, nên lấy bệnh phẩm đông máu bằng phương pháp trích máu tĩnh mạch. Không cần thiết phải loại bỏ ống máu ban đầu khi trích máu tĩnh mạch [4,5]. Tuy nhiên, trong các cơ sở chăm sóc đặc biệt, xét nghiệm đông máu thường được lấy từ các đường truyền tĩnh mạch có sẵn. Mẫu phải không bị lẫn dung dịch đang được truyền, vì có thể làm loãng mẫu và / hoặc đưa heparin vào. Điều này đặc biệt quan trọngđối với máu lấy từ các đường truyền trung tâm, thường được tráng bằng heparin hoặc citrat, có thể dẫn đến kéo dài thời gian đông máu một cách giả tạo [6-9]. Khi lấy mẫu từ các đường truyền này, một vài ml máu đầu tiên được rút ra sẽ phải loại bỏ, và mẫu cần thiết được lấy từ bơm tiêm thứ hai hoặc ống thứ hai để tránh bị nhiễm dung dịch trong đường truyền.

Thuốc chốngđông máu -Thực hành y tế tốt yêu cầu phòng xét nghiệmđược biết về liệu pháp chống đông máu bệnh nhân đang sử dụng vì điều này có thể ảnh hưởng lớn đến việc giải thích kết quả xét nghiệm. Có thểlà bác sĩ lâm sàng cần ghi rõ liệu pháp chống đông đang sử dụng trong chỉ định xét nghiệm hoặc nhân viên phòng xét nghiệm kiểm tra thuốc bệnh nhân đang sử dụng trong bệnh án điện tử hoặc bằng cách liên hệ trực tiếp với bác sĩ chỉ định.

Các chất và điều kiện ảnh hưởng khác – Các chất khác có trong mẫu như lipid hoặc bilirubin do tăng lipid máu, tăng bilirubin máu và tán huyết có thể cản trở việc xác định thời gian đông máu. Nếu không thể tránh được các yếu tố gây nhiễunhư vậy, thì việc pha loãng mẫu có thể cho phép ước tính thời gian đông máu. Phòng xét nghiệm có thể đánh giá yêu cầu pha loãng mẫu tại thời điểm thử nghiệm. Đa hồng cầu (ví dụ: hematocrit > 55%) gây ra giảm thể tích huyết tương trong ống lấy máu. Do đó, những bệnh nhân bị đa hồng cầu cần phải loại bỏ một lượng dung dịch citrat trong ống xét nghiệm để duy trì tỷ lệ chính xác của citrat trong máu toàn phần và để ngăn chặn việc kéo dài thời gian đông máu một cách giả tạo [10]. Không có khuyến cáo tương ứng cho bệnh thiếu máu nặng. Cách tiếp cận tốt nhất đối với những tình huống như vậy là nhận thức được khả năng gây nhiễu và liên hệ với phòng xét nghiệm đông máu để được hướng dẫn thu thập mẫu thích hợp nếu cần thời gian đông máu chính xác để chăm sóc bệnh nhân.

3. Các loại xét nghiệm

3.1 Thời gian đông máu

Thời gian đông máu đo thời gian hình thành cục đông khi thêm các chất khác nhau vào. Citrat trong ống thu thập nắp màu xanh lam lấy mất canxi trong mẫu máu để quá trình hình thành cục đông không thể diễn ra, vì canxi cần thiết cho các phức hợp yếu tố đông máu trên bề mặt tế bào hoạt hóa hoặc phospholipid.

Khi xét nghiệm, canxi được thêm trở lại mẫu tại thời điểm bắt đầu thử nghiệm, cùng với nguồn phospholipid và chất khởi động (yếu tố mô đối với thời gian prothrombin [PT]; silica hoặc các chất khác cho thời gian thromboplastin hoạt hóa [aPTT ]).

Thành phần chính xác của thuốc thửPT và aPTT làđộc quyền và thường không được tiết lộ. Các thuốc thử PT được tiêu chuẩn hóa bằng cách sử dụng tỷ lệ chuẩn hóa quốc tế (INR).

Trong khi PT và aPTT cung cấp một đánh giá tổng thể về sự hình thành cục máu đông, chúng không cung cấp thông tin về sự liên kết chéo của fibrin hoặc sự hòa tan cục máu đông và do đó sẽ không nhạy cảm với những bất thường của chức năng yếu tố XIII hoặc sự tiêu sợi huyết bất thường.

3.2 Thời gian prothrombin (PT) và INR

Thời gian prothrombin (PT) đo thời gian huyết tương đông lại khi tiếp xúc với yếu tố mô, đánh giá các con đường đông máu ngoại sinh và con đường chung (hình 1).

Xét nghiệm PT được thực hiện bằng cách phục hồi lại calci huyết tương bệnh nhân đã được citrate hóa với sự hiện diện của yếu tố mô và phospholipid và xác định thời gian cần thiết để hình thành cục máu đông fibrin. Sự hình thành cục máu đông được phát hiện bằng các phương pháp trực quan, quang học hoặc nguyên lý cơ. Kết quả được đo bằng giây và được báo cáo cùng với giá trị chứng và / hoặc INR. Phạm vi bình thường cho PT thay đổi tùy theo phòng xét nghiệm và sự kết hợp thuốc thử / dụng cụ, và nên sử dụng khoảng tham chiếu tại địa phương. Trong hầu hết các phòng xét nghiệm, phạm vi bình thường là khoảng 11 đến 13 giây.

INR được tính bằng tỷ lệ giữa PT của bệnh nhân với PT chứng và chỉ số nhạy cảm quốc tế thu được bằng cách sử dụng thromboplastin tham chiếu quốc tế do Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) phát triển, theo công thức sau [11]:

công thức

Control PT là PT bình thường trung bình do phòng xét nghiệm xác định từ ≥30 mẫu plasma tươi, bình thường được xử lý giống hệt như mẫu bệnh nhân. ISI (chỉ số nhạy cảm quốc tế) dựa trên thuốc thử thromboplastin tham chiếu quốc tế; tuy nhiên, sẽ rất hữu ích nếu giá trị ISI được xác nhận trong mỗi phòng xét nghiệm đối với từng thuốc thử và thiết bị sử dụng [12,13].

Không giống như PT, kết quả của INR sẽ tương tự dù mẫu máu được thực hiện trong bất kỳ phòng xét nghiệm nào, sử dụng bất kỳ hệ thống thiết bị / thuốc thử thromboplastin nào miễn là được hiệu chuẩn chính xác. Điều này cho phép so sánh kết quả của bệnh nhân được thực hiện tại các thời điểm và / hoặc địa điểm khác nhau, điều này rất có lợi cho việc theo dõi warfarin. Việc sử dụng INR cũng rất có giá trị đối với các nghiên cứu vì nó cho phép các nhà khoa học so sánh liều chống đông của bệnh nhân từ các cơ sở khác nhau.

Hình 1: Con đường đông máu nội sinh, ngoại sinh và con đường chung
Hình 1: Con đường đông máu nội sinh, ngoại sinh và con đường chung

3.3 Giá trị của PT / INR

Việc sử dụng PT / INR trên lâm sàng bao gồm:

  •  Đánh giá chảy máu không rõ nguyên nhân
  •  Chẩn đoán đông máu nội mạch lan tỏa
  •  Xác định giá trị nền trước khi bắt đầu liệu pháp chống đông
  •  Theo dõi liệu pháp warfarin
  •  Đánh giá chức năng tổng hợp của gan.

Như đã nói ở trên, INR được phát triểnđể cho phép bệnh nhân dùng warfarin có thể dễ dàng so sánh các kết quả xét nghiệm tại các thời điểm khác nhau và từ các phòng thí nghiệm khác nhau. INR cũng thường được sử dụng như một đại diện cho PT trong việc đánh giá tính toàn vẹn của các con đường đông máu ngoại sinh và con đường chung ở bệnh nhân chảy máu (hình 1) và để đánh giá bệnh gan giai đoạn cuối.

3.4 Nguyên nhân của PT kéo dài

Nguyên nhân của PT kéo dài bao gồm (bảng 1):

Thuốc đối kháng vitamin K – Thuốc đối kháng vitamin K như warfarin can thiệp vào giai đoạn sau chuyển đổi của các yếu tố đông máu II, VII, IX và X, dẫn đến PT kéo dài.

Các thuốc chống đông máu khác – Heparin (không phân đoạn hoặc trọng lượng phân tử thấp) và fondaparinux về lý thuyết sẽ kéo dài thời gian PT vì chúng ức chế thrombin và / hoặc yếu tố Xa. Tuy nhiên, hầu hết các thuốc thử PT chứa các hóa chất trung hòa heparin (ví dụ, heparinase, polybrene) ngăn chặn tác dụng này [14]. Tuy nhiên, PT có thể kéo dài ở nồng độ heparin trên 1 unit / mL, chẳng hạn như sau khi bolus một liều heparin, do sự bão hòa của chất trung hòa heparin. Sự kéo dài PT trong trường hợp này không nên được sử dụng để hướng dẫn điều trị; việc theo dõi heparin được thảo luận riêng.
Tất cả các thuốc chống đông máu tác dụng trực tiếp hiện có đều kéo dài thời gian PT, bao gồm thuốc ức chế thrombin trực tiếp qua đường tiêm và thuốc chống đông máu trực tiếp đường uống (DOAC) dabigatran, rivaroxaban, apixaban và edoxaban. Tuy nhiên, mức độ kéo dài khác nhau tùy theo loại thuốc cụ thể và thuốc thử PT được sử dụng, và do đó PT không đáng tin cậy để theo dõi tác dụng của thuốc. Tất cả các DOAC đều được chấp thuận sử dụng mà không cần giám sát. Chúng tôi không kiểm tra PTởbệnh nhân dùng DOAC và chúng tôi không thực hiện thay đổi về liều lượng hoặc theo dõi dựa trên kết quả của PT, ngoại trừ một số bệnh nhân bị chảy máu nghiêm trọng mà thời gian kéo dài PT có thể được coi là bằng chứng về tác dụng dai dẳng của thuốc.

Thiếu vitamin K – Các nguyên nhân tiềm ẩn bao gồm suy dinh dưỡng, sử dụng thuốc kháng sinh phổ rộng kéo dài hoặc hội chứng kém hấp thu chất béo. Khi thiếu vitamin K nhẹ, chỉ có thể kéo dài PT do ảnh hưởng chủ yếu đến yếu tố VII. Tuy nhiên, trong trường hợp thiếu vitamin K nghiêm trọng, cả PT và aPTT đều có thể kéo dài.

Bệnh gan – Bệnh gan có thể liên quan đến việc giảm sản xuất cả các yếu tố đông máu phụ thuộc vitamin K và không phụ thuộc vào vitamin K. Khi bệnh gan nhẹ chỉ PT có thể kéo dài do ảnh hưởng chủ yếu đến yếu tố VII. Tuy nhiên, trong bệnh gan nặng và / hoặc mãn tính, cả PT và aPTT đều có thể kéo dài. Điều quan trọng, bệnh gan cũng liên quan đến việc giảm sản xuất các yếu tố chống đông máu. Do đó, một PT kéo dài không phản ánh bức tranh cầm máu tổng thể.

DIC – Trong đông máu nội mạch lan tỏa (DIC), các yếu tố đông máu bị tiêu hao và cạn kiệt. Điều này có thể dẫnđến PT và aPTT kéo dài. Điều quan trọng là, các yếu tố chống đông máu cũng có thể bị cạn kiệt và PT không phản ánh bức tranh cầm máu tổng thể.

Thiếu hụt yếu tố – Thiếu hoạt động của các yếu tố đông máu trong con đường ngoại sinh có thể do rối loạn di truyền hoặc do chất ức chế mắc phải (ví dụ, tự kháng thể). Điều này bao gồm sự thiếu hụt fibrinogen và các yếu tố II, V, VII, hoặc X, hoặc sự thiếu hụt kết hợp liên quan đến một trong những yếu tố này.

Kháng thể kháng phospholipid – Kháng đông lupus hoặc kháng thể kháng phospholipid đặc hiệu cho prothrombin (yếu tố II) có thể gây giảm prothrombin máu và kéo dài thời gian PT; đôi khi những bệnh nhân có kháng thể như vậy và hiệu giá kháng thể cao có biểu hiện giảm prothrombin máu và chảy máu. Sự kết hợp giữa hiệu giá kháng thểkháng prothrombin cao và nồngđộprothrombin thấp có thể dẫn đến kết quả xét nghiệm kháng đông lupus âm tính giả vì hiệu ứng prozone [15]. Tuy nhiên, sự kéo dài riêng lẻ của aPTT là phổ biến hơn.

Như đã lưu ý ở trên, bệnh đa hồng cầu (hematocrit> 55%) có thể kéo dài PT giả tạo nếu lượng dung dịch chống đông citrate trong ống thu thập không được giảm một cách thích hợp.

3.5 Thời gian thromboplastin từng phần hoạt hóa (aPTT)

Thời gian thromboplastin từng phần hoạt hóa (aPTT, PTT) đo thời gian huyết tương đông lại khi tiếp xúc với các chất hoạt hóa yếu tố tiếp xúc, đánh giá các con đường đông máu nội sinh và con đường chung (hình 1).

Thử nghiệm aPTT được thực hiện bằng cách phục hồi lại calci huyết tương đã được citrate hóa khi có mặt vật liệu thromboplastic không có hoạt tính của yếu tố mô (do đó có thuật ngữ thromboplastin một phần) và một chất tích điện âm (ví dụ: celite, cao lanh [aluminum silicate], silica), dẫn đến hoạt hóa yếu tố tiếp xúc, do đó bắt đầu đông máu thông qua con đường đông máu nội sinh [16]. Vật liệu thromboplastic cung cấp nguồn phospholipid.
Giới hạn bình thường của aPTT thay đổi tùy theo phòng xét nghiệm và sự kết hợp thuốc thử / thiết bị, và nên sử tham chiếu tại địa phương. Trong hầu hết các phòng xét nghiệm, phạm vi bình thường là khoảng 25 đến 35 giây.

Không có tiêu chuẩn hóa xét nghiệm aPTT trên các hệ thống thuốc thử / thiết bị khác nhau tương tự như INR cho PT. Do đó, các giá trị aPTT từ các phòng thí nghiệm khác nhau không thể được so sánh trực tiếp. Để theo dõi heparin, mỗi phòng xét nghiệm nên thiết lập khoảng điều trị bằng cách xác định khoảng aPTT tương ứng với chuẩn độ protamine 0,2 đến 0,4 units /mL hoặc 0,3 đến 0,7 units/mL kháng yếu tố xa.

3.6 Giá trị lâm sàng của aPTT:

  •  Đánh giá chảy máu không rõ nguyên nhân
  •  Chẩn đoán đông máu nội mạch lan tỏa (DIC).
  •  Xác định giá trị nền trước khi bắt đầu liệu pháp chống đông.
  •  Theo dõi điều trị heparin không phân đoạn (đối với những người có aPTT ban
    đầu bình thường).
  •  Theo dõi liệu pháp điều trị bằng thuốc ức chế thrombin trực tiếp qua đường tiêm (ví dụ, argatroban, hirudin).

Lưu ý, các heparin trọng lượng phân tử thấp (LMW) thường không kéo dài aPTT. Nếu cần, có thể thực hiện theo dõi bằng xét nghiệm hoạt tính kháng yếu tố Xa. Tuy nhiên, việc theo dõi trong phòng xét nghiệm nói chung là không cần thiết ở những bệnh nhân không mang thai, vì đápứng chống đông máu với một liều cố định của LMW heparin tương quan nhiều với trọng lượng cơ thể của bệnh nhân.

3.7 Nguyên nhân của aPTT kéo dài (bảng 1):

Heparin – Heparin là một chất ức chế thrombin gián tiếp tạo phức với antithrombin (AT), chuyển đổi AT từ chậm thành chất bất hoạt thrombin nhanh chóng (yếu tố IIa), yếu tố Xa, và ở mức độ thấp hơn là các yếu tố IXa, XIa và XIIa. Heparin trong mẫu máu (ví dụ, do lấy từ đường truyền tĩnh mạch trung tâm) có thể làm tăng aPTT giả. Xét nghiệm lặp lại được chỉ định nếu đây được cho là lý do kéo dài aPTT. Trong những trường hợp phức tạp hơn (ví dụ, không thể lấy mẫu ngoại vi, nghi ngờ sử dụng lén lút heparin), thời gian reptilase có thể được sử dụng để xác định xem heparin có phải là nguyên nhân kéo dài aPTT hay không.

Thuốc ức chế thrombin trực tiếp và chất ức chế yếu tố Xa trực tiếp – Thuốc ức chế thrombin trực tiếp và chất ức chế yếu tố Xa trực tiếp đều có thể gây kéo dài aPTT, mặc dù không có mối tương quan rõ ràng giữa mức độ kéo dài và liều thuốc.

Các thuốc chống đông máu khác – Fondaparinux có thể gây kéo dài aPTT nhẹ. Warfarin có tác dụng yếuđối với hầu hết các thuốc thửaPTT, nhưng liều warfarin cao có thể làm tăng aPTT, và warfarin sẽ làm tăng độ nhạy của aPTT đối với tác dụng của heparin [17].

Bệnh gan – Khi bệnh gan nhẹ, chỉ PT có thể kéo dài do ảnh hưởng chủ yếu đến yếu tố VII. Tuy nhiên, trong bệnh gan nặng và / hoặc mãn tính, cả PT và aPTT đều có thể kéo dài. Điều quan trọng, bệnh gan cũng liên quan đến việc giảm sản xuất các yếu tố chống đông máu. Do đó, aPTT kéo dài không phản ánh bức tranh cầm máu tổng thể.

DIC – Như đã nói ở trên, các yếu tố đông máu bị tiêu hao và cạn kiệt ở bệnh nhân đông máu nội mạch lan tỏa (DIC). Điều này có thể dẫn đến PT và aPTT kéo dài. Điều quan trọng là, các yếu tố chống đông máu cũng có thể bị cạn kiệt và aPTT không phản ánh bức tranh cầm máu tổng thể.

Bệnh von Willebrand – bệnh von Willebrand (VWD) có thể gây kéo dài aPTT vì yếu tố von Willebrand là chất mang (và chất ổn định) của yếu tố VIII. Nếu nồng độ yếu tố VIII đủ thấp, aPTT có thể trở nên kéo dài. Những bệnh nhân khác bị VWD có thểcó aPTT bình thường.

Bệnh Hemophilia A hoặc B – Bệnh máu khó đông A (thiếu yếu tố VIII di truyền) và bệnh ưa chảy máu B (thiếu yếu tố IX di truyền) gây kéo dài aPTT ở những người bị thiếu hụt yếu tố nặng hoặc trung bình (ví dụ: hoạt động yếu tố ≤15%). Một số cá nhân mắc bệnh nhẹ có thể có aPTT bình thường.

DIC – Như đã nói ở trên, các yếu tố đông máu bị tiêu hao và cạn kiệt ở bệnh nhân đông máu nội mạch lan tỏa (DIC). Điều này có thể dẫn đến PT và aPTT kéo dài. Điều quan trọng là, các yếu tố chống đông máu cũng có thể bị cạn kiệt và aPTT không phản ánh bức tranh cầm máu tổng thể.

Bệnh von Willebrand – bệnh von Willebrand (VWD) có thể gây kéo dài aPTT vì yếu tố von Willebrand là chất mang (và chất ổn định) của yếu tố VIII. Nếu nồng độ yếu tố VIII đủ thấp, aPTT có thể trở nên kéo dài. Những bệnh nhân khác bị VWD có thểcó aPTT bình thường.

Bệnh Hemophilia A hoặc B – Bệnh máu khó đông A (thiếu yếu tố VIII di truyền) và bệnh ưa chảy máu B (thiếu yếu tố IX di truyền) gây kéo dài aPTT ở những người bị thiếu hụt yếu tố nặng hoặc trung bình (ví dụ: hoạt động yếu tố ≤15%). Một số cá nhân mắc bệnh nhẹ có thể có aPTT bình thường.

Thiếu hụt yếu tố đông máu di truyền khác:

  • Thiếu yếu tố XI di truyền (đôi khi được gọi là bệnh ưa chảy máu C), thường gặp
    ở người Do Thái Ashkenazi.
  • Thiếu yếu tố XII di truyền, không liên quan đến chảy máu lâm sàng.
  • Thiếu di truyền các yếu tố X, V, prothrombin (yếu tố II), fibrinogen, hoặc thiếu hụt yếu tố phụ thuộc vitamin K kết hợp.

Có chất ức chếyếu tố đông máu –Chấtức chếyếu tố phổ biến nhất là yếu tố VIII. Đây có thể là các kháng thể (ví dụ, ở những bệnh nhân mắc bệnh ưa chảy máu A nặng phát triển đáp ứng miễn dịch với yếu tố VIII của người được truyền) hoặc các tự kháng thể. Các tự kháng thể đối với yếu tố VIII có thể liên quan đến bệnh tự miễn dịch, các bệnh hệ thống khác, hoặc biểu hiện xuất huyết mà không có nguyên nhân rõ ràng. Điều quan trọng là phải phân biệt giữa chất ức chế yếu tố VIII và các chất ức chế khác trong xét nghiệm aPTT như kháng đông lupus vì chất ức chế yếu tố VIII có thể liên quan đến chảy máu đe dọa tính mạng trong khi kháng đông lupus có thể liên quan đến huyết khối. Đặc điểm phân biệt của các chất ức chế yếu tố VIII là tăng thời gian kéo dài của aPTT sau một đến hai giờ ủ ở 37C so với mức độ kéo dài sau năm phút ủ.

Kháng đông Lupus: Một số kháng thể kháng phospholipid (aPL) có thể gây kéo dài Hậu quả là do sự can thiệp vào quá trình tạo thành phức hợp prothrombinase với phospholipid trong xét nghiệm in vitro. Kháng đông lupus được xác định bằng cách chứng minh sự kéo dài của xét nghiệm phụ thuộc phospholipid không trở lại bình thường khi bổ sung huyết tương bình thường nhưng lại trở lại bình thường khi bổ sung phospholipid dư thừa.

Trong một nghiên cứu 55 trẻ em có aPTT kéo dài khi xét nghiệm trước phẫu thuật, 39 (71%) có kháng đông lupus [18]. Nguyên nhân bao gồm nhiều chẩn đoán (hầu hết là lành tính nhưng một số có khả năng cần điều trị). Mặc dù kháng đông lupus gây kéo dài aPTT, nhưng kiểu hình phổ biến nhất là tăng nguy cơ hình thành huyết khối hơn là chảy máu. Kháng đông lupus đôi khi ảnh hưởng đến prothrombin và kéo dài thời gian PT.

ThuốcMột số loại thuốc (ví dụ: oritavancin) có thể liên kết với phospholipid và gây kéo dài thời gian xét nghiệm đông máu trong ống nghiệm, đặc biệt là aPTT. Nếu bệnh nhân dùng thuốc kéo dài aPTT cần điều trị bằng heparin, việc theo dõi và dùng thuốc phải dựa trên một xét nghiệm không nhạy cảm với tác dụng này, chẳng hạn như xét nghiệm kháng yếu tố Xa.

Như đã lưu ý ở trên, bệnh đa hồng cầu (hematocrit> 55%) có thể kéo dài aPTT một cách giả tạo nếu lượng dung dịch chống đông máu citrate trong ống thu thập không được giảm một cách thích hợp.

Bảng 1: Nguyên nhân PT kéo dài và / hoặc aPTT kéo dài