Tiêm khớp cổ tay và bàn tay và tỷ lệ mắc bệnh xương khớp

5/5 - (1 bình chọn)

Bài viết Tiêm khớp cổ tay và bàn tay và tỷ lệ mắc bệnh xương khớp của tác giả David Silver; được biên dịch bởi Bác sĩ Nguyễn Hoàng Chương.

1. Tỷ lệ mắc bệnh

Tổn thương mô mềm thường xảy ra ở khớp cổ tay, bàn tay và ngón tay. Viêm khớp dạng thấp (RA) và các bệnh khớp khác gây ra các vấn đề này. Viêm xương khớp phổ biến nhiều khoảng bốn lần so với RA. Viêm xương khớp nguyên phát di truyền gia đình như tính trạng di truyền trội NST thường. Đặc điểm quen thuộc nhất là ảnh hưởng đến các khớp ngón tay đốt xa, tạo ra các nốt Heberden, cũng như ảnh hưởng đến khớp cổ – bàn của ngón cái. Trong viêm xương khớp của các khớp khác, ảnh hưởng di truyền ít rõ ràng hơn. Viêm khớp thứ phát có thể theo sau các hoạt động thể thao và chấn thương, gây ra viêm màng hoạt dịch tái phát.

2. Các tình trạng được xử lý bằng STEROID

Đối tượng

  • Viêm xương khớp. Ảnh hưởng đến khớp cổ – bàn đầu tiên (ngón cái).
  • Viêm khớp dạng thấp. Các đợt cấp tính nghiêm trọng của khớp liên đốt hoặc khớp cổ – bàn.
  • Hội chứng ống cổ tay. Điều này là do đè nén dây thần kinh giữa (chèn ép thần kinh) ở cổ tay. Tình trạng này có thể được điều chỉnh bởi các yếu tố gây tăng cân, chẳng hạn như béo phì, phù nề, bệnh to đầu chi, mang thai, RA, rối loạn collagen, viêm xương khớp và chấn thương trước đó ảnh hưởng đến xương cổ tay. Tình trạng này xảy ra thường xuyên hơn ở phụ nữ và ở những người dùng thuốc tránh thai đường uống.
  • Viêm bao gân hoạt dịch ngón cái (bệnh de Quervain). Gân duỗi … ngắn và gân cơ giạng … dài đặc biệt dễ bị viêm sau chấn thương nghề nghiệp hoặc sang chấn lặp đi lặp lại.
  • Ngón tay cò súng. Tình trạng này có thể vô căn, nhưng xảy ra phổ biến hơn ở RA (nó có thể là biểu hiện sớm hoặc muộn). Nó ảnh hưởng đến bất kỳ vỏ bao hoạt dịch gân duỗi tại lòng bàn tay, bao gồm cả ngón tay cái.

3. Khớp cổ – bàn đầu tiên

Khớp cổ-bàn đầu tiên là một trong số ít các khớp bị ảnh hưởng bởi viêm xương khớp, và trong đó đáp ứng khá tốt với tiêm steroid (khớp còn lại đáp ứng tốt với tiêm steroid là khớp cùng – đòn). Thường được mô tả là “ngón cái thợ giặt”, loại viêm xương khớp này đi kèm các động tác lặp đi lặp lại được thực hiện trong quá trình nội trợ .

3.1 Biểu hiện và chẩn đoán

Bệnh nhân thường than phiền đau nhức quanh khớp, và kiểm tra cho thấy đau khi cử động thụ động ngón cái ra sau. Thông thường loãng xương đi kèm, cần lưu ý khi kiểm tra X quang khớp. Chúng có thể khiến việc tiêm vào khoang khớp nhỏ trở nên khó khăn.

3.2 Giải phẫu chức năng

Khớp này là khớp nối của xương đốt bàn đầu tiên với xương thang cổ tay. Duỗi và dạng ngón cái gây đau đớn và căng nề sâu trong hõm lào giải phẫu ở đường khớp, dễ sờ thấy hơn khi đối tượng gấp và khép ngón tay cái vào lòng bàn tay. Khoang khớp, mặc dù nhỏ, sẽ có thể tiêm khoảng 0,5 ml dung dịch steroid.

3.3 Kỹ thuật tiêm (xem hình 6.1)

Bệnh nhân khép ngón cái vào lòng bàn tay càng sát càng tốt, và giữ nó ở đó cùng với ngón trỏ và ngón giữa. Sờ nắn đường khớp ở phía sau và sau đó tiêm từ phía ngoài, chú ý tránh gân cơ dạng ngón cái – nó đánh dấu ranh giới hõm lào. Sử dụng kim nhỏ ⅝ inch (1,6 cm) và tiêm khoảng 0,5 ml triamcinolone acetonide. Không yêu cầu lidocaine, mặc dù một số bác sĩ thích sử dụng lượng tương đương lidocaine 1%.

4. Khớp bàn và khớp liên đốt

Các đợt cấp tính RA nghiêm trọng ảnh hưởng đến các khớp nhỏ của bàn tay thường được lợi từ việc tiêm trực tiếp steroid, chẳng hạn như triamcinolone acetonide, vào khoang khớp hoặc vào bao hoạt dịch bị viêm xung quanh và bao khớp.

4.1 Giải phẫu chức năng

Đây là những khớp đơngiản, nhưng phải nhớ rằng kho- ang khớp liên đốt nằm xa khớp khi sờ nắn và là một khớp nối, với một mặt khớp và hai dây chằng bên. Các khớp liên đốt là khớp bản lề đơn giản, mỗi khớp có một diện khớp và hai dây chằng bên. Điều quan trọng cần phải nhớ, đó l2 bó mạch thần kinh ở bên cạnh mỗi khớp khi tiêm.

4.2 Kỹ thuật tiêm

Sờ nắn đường khớp bằng cách kéo lực nhẹ để mở khoang khớp trước khi tiêm 0,25-0,5 ml triamcinolone acetonide vào mặt trước ngoài khoang khớp. Vì các khoang khớp rất nhỏ, không cần thiết phải trộn steroid với lido- caine trừ khi các khớp rất căng khi sờ nắn. Tiêm hai hoặc ba trong số các khớp này cùng một lúc là phù hợp và thông thường, đạt được sự thuyên giảm kéo dài đến 6 tháng.

Hình 6.1 Tiêm khớp cổ - bàn tay 1
Hình 6.1 Tiêm khớp cổ – bàn tay 1

5. Hội chứng ống cổ tay

5.1 Biểu hiện và chẩn đoán

Đây có lẽ là rối loạn chèn ép thần kinh phổ biến nhất, ảnh hưởng đến phụ nữ phổ biến hơn nam giới. Do sự chèn ép của dây thần kinh giữa khi nó đi vào lòng bàn tay phía sau mạc ngang cơ gấp. Hội chứng điển hình biểu hiện bằng cơn đau tỏa ra từ cánh tay tới cổ tay, với dị cảm ảnh hưởng do sự phân bố dây thần kinh giữa trong lòng bàn tay, cụ thể là ngón tay cái, ngón trỏ và chủ yếu là ngón giữa và nửa bên của ngón đeo nhẫn; các triệu chứng có thể ảnh hưởng đến bệnh nhân trong đêm, thuyên giảm khi thức dậy và khi di chuyển cánh tay bàn tay. Nếu không được điều trị, tình trạng có thể xấu đi và gây ra teo cơ lòng bàn tay.
Ngón giữa thường là ngón đầu tiên và ngón bị ảnh hưởng nặng nhất bởi dị cảm. Thỉnh thoảng, bệnh nhân phàn nàn về dị cảm ảnh hưởng đến tất cả các ngón tay của bàn tay, và điều này tạo ra một vấn đề chẩn đoán cho bác sĩ lâm sàng. Điều này có thể là do sự chèn ép hoàn toàn cả hai dây thần kinh trụ và giữa. Người ta cho rằng, có thể có mối liên hệ giải phẫu giữa dây thần kinh giữa và dây thần kinh trụ để giải thích điều này, và nếu bệnh sử điển hình như mô tả, chẩn đoán hội chứng ống cổ tay vẫn có thể được đưa ra một cách tự tin, mặc dù bệnh nhân phàn nàn về dị cảm ở tất cả ngón tay.

Như được mô tả trước đó, điều quan trọng là phải nhận ra và điều trị bất kỳ rối loạn định hướng hoặc đi kèm để đảm bảo phục hồi lâu dài.

5.2 Test Tinel

Đây là một xét nghiệm chẩn đoán đáng tin cậy. Gõ nhẹ trên mạc ngang gân gấp bằng búa gõ, đặc biệt là giữa gân cơ gan tay dài và gân cổ tay quay. Xét nghiệm dương tính nếu bệnh nhân mô tả cảm giác ngứa ran theo phân bố dây thần kinh giữa.

5.3 Test Phelan

Đây là một test xác định hữu ích khác. Giữ cổ tay gấp một góc nhọn trong tối đa 1 phút; điều này thường tái hiện cơn đau và dị cảm điển hình.

Chẩn đoán có thể được xác nhận bằng điện cơ đồ, và xét nghiệm thêm này được khuyến nghị trong trường hợp nghi ngờ. Thường cần phải loại trừ các nguyên nhân gây dị cảm ở bàn tay hoặc đau ở cánh tay phát sinh từ cột sống cổ, chẳng hạn như tổn thương đĩa đệm vùng cổ hoặc bệnh cột sống gây ra các chèn ép rễ thần kinh C5 hoặc C6.

5.4 Giải phẫu chức năng

Dây thần kinh giữa nằm ở phía sau của gân cơ gan tay dài ở cổ tay, và nó đi vào lòng bàn tay sâu đến mạc ngang gân gấp. Cấu trúc sau là một dải xơ dày đặc bao phủ một phần ba gần lòng bàn tay, trong đó gân cơ gan tay dài bám vào. Gân cơ gan tay dài là gân nằm giữa và nông nhất, nổi bật khi cổ tay gập chống lại kháng lực. Do đó, điều quan trọng là xác định được gân gan tay dài vì cho phép người thực hiện biết vị trí chính xác của dây thần kinh giữa. Khoảng 13% số người không sở hữu gân cơ gan tay dài, và trong trường hợp đó, dây thần kinh giữa được xác định nằm giữa gân gấp các ngón nông và gân cơ gấp cổ tay quay. Khi vào lòng bàn tay, dây thần kinh giữa sau đó nằm trong ống cổ tay, nơi nó phân chia thành các nhánh chi phối các ngón.

5.5 Kỹ thuật tiêm (xem Hình 6.2)

Điều trị hội chứng ống cổ tay nhẹ, ban đầu, có thể là lời khuyên giảm cân đơn giản cùng với một viên thuốc lợi tiểu hàng ngày, chẳng hạn như hydrochlo- rothiazide hoặc cyclopenthiazide.

Nẹp ban đêm cũng có thể hỗ trợ và là biện pháp được ưa dùng trong giai đoạn đầu thai kỳ. Việc tiêm steroid trong 16 tuần đầu tiên thai kỳ là không khôn ngoan. Nếu những biện pháp đơn giản này không thành công, tiêm ste- roid là điều nên làm và sẽ hữu ích trong hơn 60% trường hợp. Nếu không có phản ứng với tiêm ste- roid (sau hai hoặc ba lần tiêm liên tiếp) hoặc, rất quan trọng, nếu có bằng chứng về tổn thương thần kinh giữa, như yếu cơ, khi đó nên cân nhắc phẫu thuật giải áp.

Bệnh nhân ngồi đối diện với người thực hiện, với lòng bàn tay bị ảnh hưởng ngửa lên trên và nằm trên bề mặt chắc chắn. Bằng cách gập cổ tay chống lại kháng lực, có thể thấy rõ gân của cơ gan tay dài. Tạo một điểm mốc chính xác trên da phía xương quay ở nếp gấp xa của cổ tay; đây là nơi tiêm tốt nhất. Như trong tất cả các quy trình, nên tiêm thuốc cho bệnh nhân, nếu có thể, thông qua nếp nhăn da vì cách này sẽ ít đau hơn. Nếu bạn không thể xác định gân gan tay dài, do không có ở 13% bệnh nhân, hãy sờ vào khoảng cách giữa các gân của cơ gập các ngón nông và cơ gấp cổ tay quay, và sau đó đánh dấu da ở nếp nhăn xa. Đảm bảo rằng bạn tránh bất kỳ tĩnh mạch bề mặt nào.

Sử dụng 1 ml steroid, ví dụ, triamcinolone acetonide đơn độc, trong ống tiêm 2 ml. Sử dụng kim 1 inch (2,5 cm). Không thêm thuốc gây tê cục bộ, bởi vì tác dụng của nó có thể gây tê khó chịu ở ngón tay và lòng bàn tay chịu phân bố của dây thần kinh giữa, kéo dài trong vài giờ. Các triệu chứng của hội chứng ống cổ tay rất khó chịu đối với nhiều bệnh nhân, do đó, việc tái tạo các triệu chứng này trong vài giờ sẽ tạo ra nhiều khó chịu, chưa kể gây ra một số sự bất lợi cho bác sĩ!

Hình 6.2 Hội chứng ống cổ tay
Hình 6.2 Hội chứng ống cổ tay

Bây giờ, khi cổ tay thẳng, đưa kim tiến gần tới chuôi, hướng ra xa và nghiêng một góc 45 độ. Điều này đảm bảo rằng dung dịch steroid được lắng trong ống cổ tay ngay sau mạc ngang gân gấp. Tại thời điểm này, luôn luôn hỏi bệnh nhân điều này thoải mái hay không, và đảm bảo rằng không có cảm giác đau. Vô tình tiêm phải một nhánh chi phối ngón tay của dây thần kinh giữa sẽ gây đau ở lòng bàn tay và đi dọc theo một ngón tay. Nếu điều này xảy ra, chỉ cần rút kim ra một chút trước khi tiêm. Hút để loại trừ tình huống tiêm nội mạch. Sau đó, bạn có thể tiêm steroid dễ dàng, với ít kháng lực trên pít-tông. Tiêm chậm, vì điều này sẽ đảm bảo ít đau hoặc khó chịu do tiêm.

Các dây thần kinh giữa nằm ở phía sau gân cơ gan tay dài. Nếu việc đâm kim gây ra dị cảm ngay lập tức, cho thấy kim đã xâm nhập vào dây thần kinh giữa, rút kim ra một chút và đặt lại ngay sau đó. Điều này sẽ đảm bảo rằng không có thiệt hại gây ra cho dây thần kinh.
Luôn nhớ nhắc nhở bệnh nhân rằng một số cơn đau cấp tính có thể xảy ra trong tối đa 48 giờ sau khi tiêm. Khuyên rằng thuốc giảm đau đơn giản sẽ có hiệu quả và hướng dẫn bệnh nhân đặt cánh tay nghỉ ngơi trong 24 – 48 giờ sau khi tiêm.

Các triệu chứng sẽ cải thiện sau vài ngày và việc trấn an bệnh nhân là rất quan trọng. Nếu tình trạng đau ở cả 2 bên, tốt hơn là nên tiêm một bên trước và chờ kết quả lâm sàng. Đôi khi bên còn lại cải thiện một cách tự nhiên và không cần điều trị thêm. Trường hợp không cải thiện triệu chứng, tiêm bên còn lại sau khoảng 3 tuần sẽ hợp lý hơn. Tuy nhiên, vị trí không có sự cải thiện sau ba lần tiêm, nên cân nhắc giải áp bằng phẫu thuật.

6. Viêm bao gân hoạt dịch De- quervain’s

6.1 Biểu hiện và chẩn đoán

Tình trạng này thường là do sang chấn lặp đi lặp lại, chấn thương thể thao hoặc yếu tố nghề nghiệp. Bệnh nhân than phiền đau ở đường gân. Khi kiểm tra, có thể có sưng và cảm giác răng rắc khi sờ nắn bằng cách di chuyển ngón cái. Chẩn đoán được xác nhận bằng cách yêu cầu bệnh nhân nắm tay lại trong khi gấp ngón cái vào lòng bàn tay và gấp cổ tay nghiêng trụ. Điều này tái hiện lại cơn đau. Cơn đau cũng xảy ra khi giạng và mở ngón cái cưỡng ép.

6.2 Giải phẫu chức năng

Viêm bao gân hoạt dịch De Quervain ảnh hưởng đến các gân viêm của cơ giạng dài ngón cái và cơ duỗi ngắn ngón cái. Những đường gân này hợp nhất khi chúng đi qua mỏm trâm xương quay và tạo thành một lớp vỏ bao hoạt dịch chung, tạo thành đường bờ trước của hõm lào. Các gân được lót bằng một lớp vỏ bao hoạt dịch, và trong viêm bao gân hoạt dịch, bề mặt bao hoạt dịch trở nên sần sùi, gây đau và răng rắc khi di chuyển gân. Bằng cách tiêm, mục đích là đưa steroid trộn với thuốc gây tê cục bộ vào khoảng trống giữa gân và vỏ bao.

6.3 Kỹ thuật tiêm (xem Hình 6.3)

Sử dụng 1 ml steroid trộn với 1 ml lidocaine 1% trong ống tiêm 2 ml, và kim ⅝ inch (1,6 cm) (số 20, 25). Đưa kim dọc theo đường sợi gân nằm đủ xa cách điểm căng nề tối đa, tiến gần đến gân (bệnh nhân sẽ đau hơn nếu tiêm thuốc này ở xa), khi cảm thấy kháng lực tiêm . Từ từ rút kim, đồng thời duy trì áp lực lên pít-tông cho đến khi lực cản biến mất. Tại thời điểm này, đầu kim nằm trong vỏ gân và toàn bộ 2 ml dung dịch được tiêm vào. Vỏ bao có thể nở rộng rõ dọc theo đường đi của nó khi tiêm. Người ta có thể chọn bất kỳ steroid nào cho mục đích này. Giảm đau thường mạnh và ngay lập tức.

6.4 Tư vấn sau tiêm

Sẽ là khôn ngoan khi đề nghị một khoảng thời gian nghỉ ngơi dành cho phần bị ảnh hưởng trong một vài ngày, và tránh các cử động gây đau hoặc các động tác ban đầu gây ra vấn đề. Các đợt tái phát chỉ ra rằng có sang chấn lặp đi lặp lại, có thể là kết quả động tác bị lỗi, là nguyên nhân, và lời khuyên thích hợp liên quan đến nghề nghiệp nên được đưa ra.

7. Ngón tay cò súng

7.1 Biểu hiện và chẩn đoán

Ngón tay cò súng có thể do vô căn, nhưng nó phổ biến ở RA sớm và muộn và gây ảnh hưởng đến bất kỳ hoặc tất cả các gân gấp các ngón tay. Một nốt sần mềm trong lòng bàn tay thường được sờ thấy trên đường đi của gân gấp, đủ gần so với nếp gấp khớp bàn – ngón. Tiêm vào vỏ bao gân chứ không vào nốt này. Bệnh nhân phàn nàn việc ngón tay bị ảnh hưởng bị khóa một cách tự nhiên trong khi gập; chỉ có cách cố hết sức, ngón tay mới có thể được giải phóng bằng cách thao tác hoặc duỗi mạnh khớp bị ảnh hưởng. Đương nhiên tình trạng này là một mối nguy hiểm nghề nghiệp cho bất kỳ ai đảm nhận công việc máy móc hoặc công việc phức tạp liên quan đến bàn tay, ngón tay.

Hình 6.3 Viêm bao gân hoạt dịch De Quervain's
Hình 6.3 Viêm bao gân hoạt dịch De Quervain’s

7.2 Giải phẫu chức năng

Tình trạng này là do viêm bao gân hoạt dịch ảnh hưởng đến bất kỳ gân cơ gấp (nông và sâu) trong lòng bàn tay. Những đường gân này được bao bọc bởi vỏ bao khi chúng đi qua đường hầm ống cổ tay. Chúng kéo dài khoảng 1 inch (2,5 cm) phía trên mạc ngang gân gấp cho đến khoảng một nửa chiều dài đốt bàn, ngoại trừ ngón út, trong đó vỏ bọc liên tục và kéo dài đến đốt ngón cuối, và ngón tay cái (cơ gấp ngón cái dài), trong đó vỏ bọc liên tục đến đầu ngón. Các sợi của bao hoạt dịch ở đoạn cuối của gân mỏng hơn ở các khớp.

7.3 Kỹ thuật tiêm (xem Hình 6.4)

Sử dụng 1 ml steroid trộn với 1 ml lidocaine 1% trong ống tiêm 2 ml với kim 5/8 inch (1,6 cm). Đưa kim qua nếp gấp trên khớp bàn – ngón và tiến gần đến gân gập. Yêu cầu bệnh nhân gập ngón tay đó, khi đó kim sẽ di chuyển, xác nhận rằng đầu kim nằm trong gân. Kháng lực lên pít tông sẽ được cảm nhận. Từ từ rút kim trong khi vẫn duy trì áp lực lên pít-tông cho đến khi kháng lực đối với lực tiêm biến mất, khi đó thuốc có thể dễ dàng được tiêm vào vỏ bao. Một mũi tiêm thuốc chậm sẽ làm nở rộng một phần của vỏ gân gần với vị trí tiêm, một dấu hiệu xác nhận rằng thuốc vào đúng vị trí.

Điều quan trọng là phải nhấn mạnh rằng, không bao giờ nên cố gắng tiêm steroid vào trong gân. Như đã nêu trước đây, những mũi tiêm này phải vào dễ dàng mà không cần lực, và dung dịch chỉ nên trượt qua.

Ngón tay cò súng đáp ứng tốt với tiêm steroid, nhưng tái phát và có thể được tiêm hai đến ba lần trong một năm, nếu lâm sàng yêu cầu. Tuy nhiên, tái phát lần nữa sẽ có thể cần phẫu thuật giải áp.

Hướng dẫn bằng hình ảnh siêu âm có thể hỗ trợ xác nhận chẩn đoán viêm bao gân hoạt dịch khu trú và kiểm tra động học cho phép xác định mối tương quan giữa các triệu chứng và các dấu hiệu để xác định chẩn đoán. Một mũi tiêm nhắm mục tiêu vào vỏ gân hoặc nốt hạch, thường gặp là nguyên nhân gây ra khởi phát, có thể hữu ích.

Hình 6.4 Ngón tay cò súng
Hình 6.4 Ngón tay cò súng

8. Vật lý trị liệu: cổ tay và tay

Viêm xương khớp ở khớp cổ-bàn đầu tiên, khớp bàn và khớp liên đốt.

Tác động của viêm khớp ở các khớp nhỏ của bàn tay có thể ảnh hưởng đáng kể đến các hoạt động trong cuộc sống hàng ngày. Các dụng cụ hỗ trợ và thích ứng đơn giản như tay cầm bằng nhựa xung quanh bút, lọ và chai có thể giúp hoạt động hàng ngày dễ dàng hơn. Một loạt các thanh nẹp sẵn có, từ các nẹp neoprene khác nhau để sử dụng vào ban đêm, cho đến các dụng cụ chỉnh hình tùy chỉnh, tạo thuận lợi cho các hoạt động nghề nghiệp.
Các bài tập hàng ngày để duy trì phạm vi cử động có thể được bổ sung khi bệnh nhân thực hiện các vận động chung của bản thân. Những động tác này có thể được thực hiện thoải mái hơn khi bàn tay ở trong nước ấm. Tăng sức mạnh của cơ mô cái, cơ mô út và cơ nội tại bàn tay giúp cải thiện sự ổn định của các khớp tay nhỏ trong quá trình hoạt động hàng ngày.

NSAID tại chỗ đã được chứng minh là có hiệu quả trong viêm xương khớp tay và có thể là những trị liệu giảm đau đơn giản và hữu ích.

8.1 Hội chứng ống cổ tay

Mặc dù vật lý trị liệu có thể được sử dụng để điều trị hội chứng ống cổ tay, nhưng kết quả không nhất quán và chậm. Hiệu quả tích cực từ việc tiêm corticosteroid có thể được bổ sung bằng các bài tập và kỹ thuật tác động mô mềm để đảm bảo rằng chuyển động trượt và xén bình thường của dây thần kinh giữa trong ống cổ tay được phục hồi và duy trì. Nẹp cổ tay có thể làm giảm các triệu chứng về đêm trong các tình huống cấp tính hoặc mãn tính.

8.2 Viêm bao gân hoạt dịch De Quervain

Vật lý trị liệu có thể được xem xét nếu tránh tiêm (ví dụ: ở phụ nữ cho con bú, khi có nguy cơ giảm sắc tố/teo mỡ/đứt gân hoặc trong trường hợp tái phát, nếu đã có phản ứng một phần với tiêm). Các lựa chọn thay thế tiêm, bao gồm sử dụng nẹp ngón tay cái hoặc dây đai để hỗ trợ và giúp nghỉ ngơi các cấu trúc bị viêm, chườm lạnh, siêu âm và massage mô mềm.

Chuyển động ngón tay cái sớm sẽ duy trì chuyển động giữa gân, vỏ bao và các diện mô xung quanh, nhưng nên được thực hiện trong phạm vi không gây đau. Tăng cường cơ bắp xung quanh, bao gồm cả hoạt động khác thường của cơ duỗi cổ tay trụ, nhằm mục đích giảm căng đi qua các gân ảnh hưởng.

Viêm bao gân hoạt dịch thường xảy ra thứ phát do hoạt động quá mức, vì vậy lời khuyên về cách làm việc dúng là một phần quan trọng của việc duy trì sự bền vững và ngăn ngừa tái phát.

8.3 Ngón tay cò súng

Tác dụng chữa bệnh của hầu hết các mũi tiêm corticoste- roid có nghĩa là vật lý trị liệu hiếm khi cần thiết trong trường hợp ngón tay cò súng hoặc ngón cái. Trong giai đoạn đầu, việc buộc hoặc nẹp ngón tay bị ảnh hưởng ở tư thế mở rộng sẽ cho phép gân gấp được nghỉ ngơi và có thể xóa bỏ yếu tố kích thích nên cần tránh tiêm.

9. Tài liệu tham khảo

1. Raman J (2005) Intra-ar- ticular corticosteroid injection for first carpometacarpal osteoarthri- tis. J Rheumatol. 32: 1305–1306.

2. Agarwal V et al (2005) A prospective study of the long- term efficacy of local methyl pred- nisolone acetate injection in the management of mild carpal tun- nel syndrome. Rheumatol. 44 (5): 647–650.

3. Nimigan A et al (2006) Steroid injections in the manage- ment of trigger fingers. Am J Phys Med Rehabil. 85 (1): 36–43.

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây