2016 Year in Review: Thông khí không xâm nhập, Dự đoán thất bại NIV

5/5 - (1 bình chọn)

Bài viết 2016 Year in Review: Thông khí không xâm nhập được dịch bởi Bác sĩ Đặng Thanh Tuấn từ bài viết gốc: 2016 Year in Review: Noninvasive Ventilation

Giới thiệu

Thông khí không xâm lấn (NIV) là một phương pháp điều trị phổ biến và được nghiên cứu rộng rãi để điều trị suy hô hấp. Bối cảnh hiện tại của y văn về NIV đã tăng cường việc dự đoán sự thất bại trong việc ngăn ngừa đặt nội khí quản, điều trị các phân nhóm cụ thể của bệnh nhân và so sánh các lựa chọn giao diện khác nhau để điều trị suy hô hấp. Bài viết này sẽ tập hợp một số tài liệu quan trọng của NIV xuất bản vào năm 2016 thành các loại điều trị, tóm tắt các phát hiện và cung cấp cái nhìn sâu sắc về nó có thể ảnh hưởng như thế nào đến thực tiễn hiện tại.

NIV so với Oxy lưu lượng cao qua cannula mũi (HFNC)

Bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch

Việc sử dụng oxy lưu lượng cao qua cannula mũi (HFNC) trong việc kiểm soát suy hô hấp cấp tính giảm oxy máu đã tăng đáng kể sau khi nghiên cứu FLORALI được xuất bản vào năm 2015.[1] Trong thử nghiệm FLORALI, việc sử dụng HFNC trong điều trị suy hô hấp cấp tính giảm oxy máu dẫn đến tỷ lệ tử vong 90 ngày thấp hơn so với liệu pháp oxy tiêu chuẩn và NIV (HFNC 12% vs liệu pháp oxy tiêu chuẩn 23% vs NIV 28%). Một phân tích “post hoc” của nghiên cứu FLORALI được công bố vào năm 2016 bởi Frat và cộng sự [2] chỉ xem xét các đối tượng tham gia nghiên cứu bị suy giảm miễn dịch. Có 82 đối tượng được phân loại là suy giảm miễn dịch: 26 người được điều trị bằng HFNC, 26 người được điều trị bằng NIV và 30 người được điều trị bằng liệu pháp oxy tiêu chuẩn. Sau khi hồi quy logistic đa biến, tuổi tác và việc sử dụng NIV như một phương pháp điều trị đầu tiên được liên kết độc lập với tỉ lệ đặt nội khí quản và tử vong cao hơn.

Một nghiên cứu hồi cứu của Coudroy và cộng sự [3] đã so sánh HFNC với NIV như là phương pháp điều trị đầu tiên trong 115 đối tượng suy giảm miễn dịch. Kết quả chính là tử vong ở 28 ngày, và kết cục thứ phát là tỷ lệ đặt nội khí quản, thời gian thông khí cơ học và thời gian nằm ICU, tử vong của ICU, và các biến số gắn với đặt nội khí quản và tử vong vào ngày 28. Tử vong 28 ngày thấp (20% so với 40%), tỷ lệ đặt nội khí quản thấp (35% so với 55%), và tử vong do ICU thấp hơn (15% so với 36%) đối với những bệnh nhân được điều trị bằng HFNC. Trong một phân tích đa biến các biến liên quan đến kết cục, NIV là phương pháp điều trị đầu tiên là một trong những biến số độc lập liên quan đến tỷ lệ tử vong do đặt nội khí quản và tử vong ngày 28. Hơn nữa, các tác giả đã so sánh các đối tượng propensity score-matched, cân bằng với tất cả các biến số khác ngoại trừ NIV là điều trị đầu tiên và nhận thấy có sự khác biệt lớn hơn về tỷ lệ tử vong 28 ngày (15% vs 42%), tỷ lệ đặt nội khí quản (30% vs 54%), và tỷ lệ tử vong của những người đặt nội khí quản (40% vs 77%). Nghiên cứu này có một số hạn chế, bao gồm cả thiết kế hồi cứu và thực tế là các đặc điểm cơ bản đã không được đối sánh một cách đồng đều (đối tượng điều trị với NIV có nồng độ CO2 cao hơn). Tuy nhiên, mức độ nghiêm trọng của bệnh ban đầu không khác nhau giữa các nhóm.

Những nghiên cứu so sánh NIV với HFNC ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch bị giới hạn bởi thiết kế và chỉ có một số ít các đối tượng. Tuy nhiên, chúng làm nổi bật khả năng là phương pháp điều trị ít xâm lấn hơn đối với những bệnh nhân suy giảm miễn dịch dẫn đến kết cục tốt hơn và tránh đặt nội khí quản là một mục tiêu quan trọng của liệu pháp khi có thể.

Sau rút nội khí quản ở các bệnh nhân có nguy cơ rút nội khí quản thất bại

Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên lớn gồm 604 người, Hernandez và cộng sự [4] ngẫu nhiên hóa các đối tượng có nguy cơ rút nội khí quản thất bại được nhận HFNC hoặc NIV trong 24 giờ sau khi rút nội khí quản. Nghiên cứu này là một non-inferiority study với biên độ non-inferiority là 10%. Một nghiên cứu non-inferiority study thường được sử dụng khi thử nghiệm được so sánh với một can thiệp đã được hỗ trợ bởi tài liệu và trong ví dụ này, NIV sau khi rút nội khí quản cho những bệnh nhân có nguy cơ cao bị rút nội khí quản thất bại được hỗ trợ hô hấp.[5] Kết quả chính là tỷ lệ tái đặt nội khí quản và tỷ lệ thất bại sau 72 giờ, và các kết cục thứ phát bao gồm nhiễm trùng đường hô hấp, nhiễm khuẩn huyết, suy đa tạng, thời gian nằm viện, tử vong, các tác dụng ngoại ý, và thời gian tái đặt nội khí quản. Tỷ lệ đặt nội khí quản lại cho NIV so với HFNC là 19,1% so với 22,8% với mức chênh lệch là -3,7% không vượt quá biên độ non-inferiority. Sự suy hô hấp sau rút nội khí quản của NIV so với HFNC là 39,8% so với 26,9% với sự khác biệt 12,9%, là > 10% nhưng có lợi cho HFNC. Các biến chứng bất lợi xảy ra ở nhóm NIV cao hơn, và thời gian ICU và thời gian nằm viện ngắn hơn ở HFNC. Những hạn chế của nghiên cứu này bao gồm việc thiếu một mô hình xác nhận tương lai dự đoán chính xác thất bại rút nội khí quản. Do đó, các tiêu chí đưa vào nghiên cứu khá rộng. Ngoài ra, số lượng đối tượng chẩn đoán mắc đợt cấp COPD không cân bằng ở thời điểm ban đầu. Có ít bệnh nhân bị đợt cấp COPD được điều trị bằng HFNC hơn so với NIV sau rút nội khí quản (5.2% vs 10.5%).

Số lượng các tài liệu về HFNC đang tăng lên nhanh chóng, và nhiều so sánh với HFNC có thể sẽ được điều tra. Các bác sĩ lâm sàng hiểu rằng hiện nay đã có bằng chứng về việc sử dụng NIV để phòng ngừa sự rút ngắn thất bại ở những bệnh nhân có nguy cơ cao. Tuy nhiên, đối với những bệnh nhân không dung nạp NIV, rất có giá trị khi biết rằng loại nghiên cứu non-inferiority này đã được thực hiện để hỗ trợ sử dụng HFNC.

Suy hô hấp giảm oxy máu sau phẫu thuật bụng

Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên của Jaber và cộng sự [6] đã bao gồm 293 bệnh nhân suy hô hấp giảm oxy máu trong vòng 7 ngày được phẫu thuật ổ bụng. Các đối tượng được phân ngẫu nhiên điều trị bằng NIV hoặc liệu pháp oxy tiêu chuẩn để xử trí các triệu chứng của chúng. Kết cục chính là đặt nội khí quản lại trong vòng 7 ngày của phẫu thuật, và kết cục thứ phát bao gồm đặt nội khí quản trong vòng 30 ngày, nhiễm trùng liên quan đến chăm sóc sức khoẻ và tử vong. Kết quả chính của đặt nội khí quản trong vòng 7 ngày là thấp hơn ở nhóm NIV so với nhóm điều trị bằng oxy tiêu chuẩn (33,1% so với 45,5%). Các đối tượng điều trị với NIV cũng bị nhiễm trùng liên quan đến chăm sóc sức khoẻ thấp hơn và ngày không có máy thở nhiều hơn đáng kể. Như thường thấy ở các thử nghiệm lâm sàng khác của NIV, các can thiệp không thể bị mù và do đó có giới hạn về xu hướng đặt nội khí quản. Để tránh sự thiên vị, nghiên cứu này (và nhiều người khác) tạo ra các tiêu chuẩn xác định trước nghiêm ngặt cho đặt nội khí quản lại, nhưng điều này vẫn không loại trừ khả năng thiên vị. Cũng có nhiều đối tượng bị COPD như một bệnh kèm theo ngẫu nhiên đối với nhóm NIV. Tuy nhiên, thất bại tăng CO2 máu không phải là nguyên nhân gây suy hô hấp trong nghiên cứu này. Mặc dù những hạn chế này, những phát hiện của nghiên cứu này hỗ trợ việc sử dụng NIV để điều trị suy hô hấp giảm oxy máu cấp sau phẫu thuật bụng.

Dự đoán thất bại NIV

Các nhóm tuổi khác nhau

Nhiều nghiên cứu NIV bao gồm những bệnh nhân được nhận vào các khu vực cụ thể của bệnh viện (ví dụ, ICU, khoa Cấp cứu). Điều này có xu hướng đánh giá thấp các kết quả thực tế của điều trị NIV được cung cấp bên ngoài các khu vực này. Nghiên cứu của Ozsancak Ugurlu và cộng sự [7] bao gồm 1,225 lần bắt đầu thở máy (xâm lấn và không xâm lấn) ở 8 bệnh viện khác nhau. Nghiên cứu bao gồm các đối tượng nhận thông khí cho suy hô hấp cấp (cả thiếu oxy máu và tăng CO2 máu) ở tất cả các khu vực của bệnh viện. Mục đích của nghiên cứu là so sánh các nhóm tuổi khác nhau, đặc điểm và kết cục của họ. Các tác giả đã đúng trong giả thuyết của họ rằng NIV được sử dụng nhiều nhất ở bệnh nhân lớn tuổi. Đối tượng từ 65 tuổi trở lên, NIV chiếm gần một nửa số lần bắt đầu thở máy. Lý do phổ biến nhất đối với NIV ở lứa tuổi này là bệnh phổi cấp trên nền bệnh phổi mãn tính và phù phổi do tim. Một phát hiện thú vị là không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ thành công hoặc tử vong giữa các nhóm tuổi. Điều này là giống như có hoặc không có y lệnh không đặt nội khí quản (do not intubate order). Có thời gian nằm viện dài hơn và thời gian thông khí cơ học dài hơn ở nhóm 18-44 tuổi và thời kỳ NIV dài hơn một chút đối với các đối tượng trong nhóm 65-70 tuổi. Mặc dù nó đã được giới hạn bởi thiết kế quan sát, nghiên cứu này đã chứng minh một bức tranh thực tế của sử dụng NIV trên một loạt các bệnh viện học tập và cộng đồng.

ARDS: Các chỉ số dự đoán thất bại

Sử dụng NIV ở bệnh nhân ARDS đã gây nhiều tranh cãi và liên quan đến tỷ lệ thất bại cao.[8] Một nghiên cứu đoàn hệ quan sát tiền cứu của Chawla và cộng sự [9] bao gồm tất cả các đối tượng được chẩn đoán ARDS theo định nghĩa Berlin. Mục đích của nghiên cứu là xác định các yếu tố liên quan đến thất bại NIV trong quần thể này để NIV có thể được sử dụng hợp lý và không trì hoãn đặt nội khí quản. Tỷ lệ thất bại chung của NIV là 43,8%, và các yếu tố liên quan đến thất bại NIV là tỷ lệ PaO2/FIO2 ban đầu thấp, sốc nhiễm khuẩn và mức độ nghiêm trọng của ARDS. Định nghĩa Berlin xác định mức độ nghiêm trọng của ARDS bằng PaO2/FIO2 như sau: nhẹ (200-300) trung bình (100-200) và nghiêm trọng (< 100).[10] Có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ thất bại giữa các nhóm ARDS có mức độ nặng khác nhau (nhẹ 18,9%, 73% ở mức độ trung bình, 83,3% nặng). Tỉ lệ tử vong của ICU là 37,1%, và các yếu tố liên quan đến tử vong của ICU là điểm số APACHE II cao, PaO2/FIO2, sốc nhiễm khuẩn và mức độ nặng của ARDS. Tỷ lệ tử vong ARDS trung bình và nặng tương tự nhau (46,5 và 45%), nhưng tỷ lệ tử vong ở ARDS nhẹ là thấp hơn đáng kể (20,3%). Nghiên cứu này làm nổi bật nguy cơ thất bại NIV đáng kể khi sử dụng ở những bệnh nhân ARDS vừa và nặng, trong khi nó hỗ trợ ý tưởng rằng nếu không có sốc nhiễm khuẩn thì bệnh nhân ARDS nhẹ (PaO2/FIO2 hơn 200) có thể được điều trị thành công với NIV.

Vai trò của thể tích khí lưu thông trong suy hô hấp giảm oxy máu

Một nghiên cứu của Carteaux và cộng sự [11] đã khảo sát các yếu tố tiên đoán thất bại NIV ở những bệnh nhân suy hô hấp cấp thiếu oxy máu cấp tính. Các tác giả đã đưa ra cách tiếp cận khác nhau bằng cách đánh giá thể tích khí lưu thông và thông khí. Các yếu tố liên quan đến thất bại NIV bao gồm suy giảm miễn dịch, PaO2/FIO2 thấp hơn trước khi bắt đầu NIV, Simplified Acute Physiology Score II khi nhập viện, Sequential Organ Failure Assessment score khi bắt đầu NIV, thông khí phút, và thể tích khí lưu thông trung bình trong NIV. Sự thất bại của NIV được dự báo chính xác hơn bởi thể tích khí lưu thông ở những bệnh nhân bị thiếu oxy máu vừa và nặng (PaO2/FIO2 < 200), với ngưỡng thất bại là 9,5 mL/kg trọng lượng cơ thể dự đoán. Trong các đối tượng với PaO2/FIO2 < 200, một trung bình thể tích khí lưu thông > 9,5 mL/kg trọng lượng cơ thể dự đoán được dự đoán thất bại NIV với độ nhạy 82% và độ đặc hiệu 87%. Đây là nghiên cứu đầu tiên để điều tra vai trò của thể tích khí lưu thông trong dự báo thành công hay thất bại của NIV. Việc giám sát thể tích khí lưu thông đã trở thành một tiêu chuẩn được chấp nhận cho các bệnh nhân đang thở máy, và nghiên cứu này có thể cho thấy nhu cầu giám sát chặt chẽ hơn về thể tích khí lưu thông trong quá trình thực hành hàng ngày.

HACOR Score: Dự đoán thất bại NIV ở bệnh nhân giảm oxy máu

Nguyên nhân gây suy hô hấp cấp tính giảm oxy máu không đồng nhất nhiều và có thể phức tạp hơn đáng kể so với suy hô hấp do đợt cấp của COPD. Thực tế này có thể là nguyên nhân cơ bản của các bằng chứng mâu thuẫn trong y văn.[12] Chìa khóa để quản lý thành công bệnh nhân này dường như nằm trong sự công nhận sớm các biến chính liên quan đến thất bại và hành động đúng thời điểm để tránh đặt nội khí quản chậm.[12,13] Nhiều yếu tố liên quan đến thất bại NIV khi điều trị bệnh nhân suy hô hấp cấp tính giảm oxy máu được đánh giá dễ dàng, nhưng đánh giá nguy cơ thất bại chỉ với một vài biến số có thể không có khả năng tiên đoán.[14] Nghiên cứu của Duan và cộng sự [14] đã kiểm tra giả thuyết rằng kết hợp nhiều biến thành một điểm số có thể làm tăng sức mạnh dự đoán. Mục tiêu của nghiên cứu là sử dụng một nhóm thử nghiệm đầu tiên để xác định một số biến số thu được dễ dàng liên quan độc lập với thất bại NIV. Với những biến số này, họ sẽ tạo ra một hệ thống tính điểm, và sau đó kiểm tra hệ thống tính điểm này với một nhóm bệnh nhân xác nhận. Đối tượng nghiên cứu bao gồm các bệnh nhân với PaO2/FIO2 < 300, và bệnh nhân COPD bị loại trừ.

Bảng 1
Bảng 1

Họ đã ghi danh 449 đối tượng trong nhóm thử nghiệm, tiếp theo là 358 đối tượng trong nhóm kiểm chứng. Sau khi nhóm thử nghiệm, họ xác định các biến để bao gồm trong hệ thống tính điểm. Hệ thống đánh giá bao gồm nhịp tim, nhiễm toan (đánh giá bằng pH), ý thức (đánh giá theo thang tính Glasgow coma), oxy hóa (PaO2/FIO2) và tần số thở (Bảng 1). Sau khi phân tích thêm, họ xác định rằng một điểm HACOR > 5 ở 1 giờ của NIV có độ chính xác chẩn đoán để dự đoán thất bại NIV là 81,8% ở nhóm thử nghiệm và 86,0% trong nhóm kiểm chứng. Khi phối hợp tất cả các đối tượng, những người có điểm số HACOR  5 lúc 1 giờ của NIV có tỷ lệ thất bại là 18,4% với tỷ lệ tử vong ở bệnh viện là 21,6%, và đối tượng có điểm số HACOR > 5 lúc 1 giờ của NIV có tỷ lệ thất bại là 87,1% với tỷ lệ tử vong ở bệnh viện là 65,2%. Đối với những người có điểm số HACOR > 5, đặt nội khí quản sớm dẫn đến tỷ lệ tử vong thấp hơn đáng kể so với đặt nội khí quản muộn (trong vòng 12 giờ 66%, sau 12 giờ 79%).

Hạn chế của nghiên cứu bao gồm số lượng hạn chế của một số nhóm phụ nhất định của bệnh nhân, làm giới hạn tính tổng quát của hệ thống chấm điểm. Ngoài ra, phân tích nội khí quản sớm so với muộn là một phân tích thứ yếu. Tuy nhiên, tính điểm HACOR là đơn giản và thuận tiện và rõ ràng đáng được nghiên cứu thêm để khẳng định tiềm năng thật sự của nó. Đây có thể là một công cụ đầy hứa hẹn cho bác sĩ lâm sàng tại giường để giúp cải thiện kết cục của bệnh nhân. Rõ ràng là việc lựa chọn liệu có nên đưa NIV vào bệnh nhân suy hô hấp cấp tính giảm thiếu oxy máu hay không. Nếu bệnh nhân đã được chẩn đoán là ARDS và có PaO2/FIO2 < 200, dường như rõ ràng rằng NIV không phải là lựa chọn an toàn nhất. Tuy nhiên, một kết luận cơ bản về PaO2/FIO2 với suy hô hấp cấp tính giảm oxy máu vẫn là một yếu tố nguy cơ đối với thất bại NIV mà không cần phân loại ARDS. Chính bác sĩ lâm sàng phải chứng nhận và phát hiện các yếu tố nguy cơ sớm của NIV không đảm bảo rằng không có sự chậm trễ trong đặt nội khí quản.

Giao diện

NIV Helmet so với Face mask

Sự khác biệt chính giữa thông khí xâm lấn và NIV là việc sử dụng một giao diện. Việc lựa chọn đúng giao diện cần phải xem xét những lợi thế và bất lợi cho việc cung cấp NIV. Mặc dù có bằng chứng ngày càng tăng chống lại việc sử dụng NIV để điều trị ARDS, một nghiên cứu của Patel và cộng sự đã được thực hiện để so sánh giao diện face mask truyền thống với giao diện helmet. Tổng số 83 đối tượng nhận NIV trong 8 giờ tối thiểu để điều trị ARDS theo tiêu chuẩn Berlin được phân ngẫu nhiên để tiếp tục sử dụng giao diện face mask hoặc chuyển sang giao diện helmet. Kết cục chính được đánh giá là nhu cầu đặt nội khí quản. Các kết cục thứ phát là ngày thở máy xâm lấn trong 28 ngày, thời gian nằm ICU và thời gian nằm viện, tử vong 90 ngày, và các tác dụng ngoại ý. Nghiên cứu ban đầu dự định ghi nhận 200 đối tượng nhưng đã bị ngừng sớm vì hiệu quả và an toàn do sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ tử vong 90 ngày giữa hai nhóm được tìm thấy trong một phân tích tạm thời (56,4% so với 34,1%, trong giao diện helmet).

Lợi ích đáng kể này có thể là do sự khác biệt lớn trong kết cục chính của thất bại điều trị dẫn đến nội khí quản (61,5% so với 18,2%). Ngày không thở máy và thời gian lưu lại ICU cũng thấp hơn đáng kể đối với các đối tượng được điều trị bằng giao diện helmet. Không có sự khác biệt đáng kể trong các sự kiện bất lợi. Các tác giả cảm thấy rằng khả năng cung cấp PEEP cao hơn (mức trung bình là 5,8 so với 8,0) với giao diện helmet đã góp phần vào kết quả của họ. Một số hạn chế là nghiên cứu là một nghiên cứu đơn trung tâm đã được dừng lại sớm, nó sử dụng một giao diện mới mà không có sẵn để sử dụng ở Bắc Mỹ, và do tính chất của nghiên cứu, các can thiệp không thể bị mù. Đây cũng là một nghiên cứu nhỏ, làm cho việc xem xét các kết quả này như là bằng chứng cấp cao khó có thể xem xét.

Những lo ngại về sự thanh thải PaCO2 bằng cách sử dụng helmet đã được giải quyết bằng cách đảm bảo rằng các dòng khí thở vào trong khi sử dụng helmet là > 100 L/phút. Điều này đã đạt được bằng cách sử dụng các mức độ hỗ trợ khiêm tốn ở cấp độ (5.6-10.0 cm H2O). Cũng cần lưu ý rằng giao diện helmet phải được sử dụng với bộ dây thở đôi, loại trừ nhiều thiết bị NIV bộ dây đơn khỏi sử dụng.

Bảng 2
Bảng 2

Helmet Meta-Analysis

Một nghiên cứu tổng thể và phân tích gộp bởi Liu và cộng sự [17] đã so sánh giao diện helmet với các thiết bị mặt nạ khác. Phân tích bao gồm 11 nghiên cứu bao gồm các thử nghiệm ngẫu nhiên và đối chứng. Nó xem xét các kết cục như tử vong, tốc độ đặt nội khí quản, và liệu giao diện của helmet có làm tăng PaCO2 do thiết kế của nó hay không. Các phân tích thích giao diện helmet đối với tỷ lệ tử vong và tỷ lệ đặt nội khí quản và cho rằng giao diện helmet không làm tăng PaCO2. Tuy nhiên, các bằng chứng đánh giá liệu helmet có tăng PaCO2 có một sự khác biệt đáng kể (I2 =72%) và do đó cần được giải thích một cách thận trọng. Nghiên cứu này có một số hạn chế, bao gồm sự đa dạng của các giao diện điều khiển và sự không nhất quán của các thiết lập NIV giữa các nghiên cứu, nhưng bài báo này vẫn còn quan trọng để làm nổi bật sự cần thiết của các thử nghiệm ngẫu nhiên lớn hơn. Helmet không phải là một giao diện mới, và nghiên cứu tiếp tục đánh giá tiện ích của nó. Kết quả nghiên cứu của Patel và cộng sự đã nêu bật sự cần thiết phải nghiên cứu thêm để xác định nguy cơ điều trị ARDS với NIV thực sự do sự lựa chọn giao diện hay không.

Bệnh suyễn trẻ em

Tổng quan Cochrane đã được công bố về NIV đối với bệnh suyễn cấp tính ở trẻ em. Các tác giả mô tả bối cảnh hiện tại của NIV được sử dụng để điều trị hen ở trẻ em là tăng lên nhưng không có bằng chứng hỗ trợ. Thật không may, do số lượng nghiên cứu thấp (2 thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên rất nhỏ cho tổng cộng chỉ có 40 đối tượng), không thể đưa ra khuyến cáo. Các nghiên cứu có số lượng và chất lượng thấp và có nguy cơ thiên vị nghiêm trọng. Bằng chứng hiện tại không xác nhận hoặc bác bỏ ảnh hưởng của NIV trong điều trị hen ở trẻ em. Nghiên cứu sâu hơn rõ ràng là cần thiết trước khi những ảnh hưởng của nó có thể được xác định.

Tóm lược

Có một cơ sở y văn đang phát triển nhanh chóng cho NIV, và rất khó cho các bác sĩ lâm sàng ở lại với các tài liệu hiện tại. Mục đích của bài báo này là tóm tắt một số tài liệu có liên quan để thông báo cho bác sĩ điều trị (Bảng 2). Các tài liệu thảo luận trong tổng quan này bao gồm các khía cạnh quan trọng của quản lý NIV, chẳng hạn như khi HFNC có thể hoặc không phải là lựa chọn tốt hơn cho bệnh nhân, hiểu các yếu tố tiên đoán thất bại NIV, ngăn ngừa đặt nội khí quản ở các nhóm bệnh nhân chọn lọc, hiệu năng của các giao diện NIV khác nhau và làm nổi bật khu vực mà cần tiếp tục nghiên cứu sử dụng NIV để hỗ trợ hoặc từ chối việc sử dụng nó.

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây