Ung thư dạ dày là nguyên nhân phổ biến thứ hai gây tử vong liên quan đến ung thư trên thế giới. Trong những năm vừa qua, tỷ lệ mắc ung thư dạ dày được ghi nhận là có xu hướng giảm được cho là ảnh hưởng của việc tăng tiêu chuẩn vệ sinh, dinh tránh dưỡng và có ý thức diệt trừ Helicobacter pylori. Tuy nhiên, do hậu quả nặng nề mà bệnh ung thư dạ dày có thể gặp, phòng ung thư dạ dày vẫn là ưu tiên hàng đầu. Trong bài viết dưới đây, Heal Central sẽ tóm tắt ngắn gọn các khía cạnh quan trọng nhất của ung thư dạ dày, bao gồm dịch tễ học, các yếu tố nguy cơ, phân loại, chẩn đoán, phòng ngừa và điều trị.
Ung thư dạ dày là bệnh gì?
Ung thư là tình trạng khởi phát bởi sự tăng sinh quá mức và vượt ngoài tầm kiểm soát của cơ thể. Các tế bào này có thể di căn sang các tết bào lân cận hoặc di chuyển đến bất cứ cơ quan nào để sinh trưởng phát triển.
Ung thư dạ dày (Stomach cancer) là một chứng bệnh ung thư bắt đầu từ dạ dày. Ung thư dạ dày có xu hướng phát triển chậm và thầm lặng trong nhiều năm. Trước khi ung thư đến giai đoạn toàn phát, thường xảy ra từ những thay đổi ở lớp lót bên trong (niêm mạc) của dạ dày. Những thay đổi sớm này hiếm khi gây ra các triệu chứng lâm sàng và do đó thường rất khó khăn để phát hiện. Ung thư bắt đầu ở các phần khác nhau của dạ dày và có thể gây ra các triệu chứng khác nhau và có xu hướng phát triển thành các dạng ung thư khác nhau.
Phân loại ung thư dạ dày
Tỷ lệ xuất hiện ung thư cao nhất trong dạ dày là ở phần hang môn vị (50%), tiếp sau là vùng bờ cong bé (25%). Nguyên nhân được cho là các tế bào ở hai vùng này bài tiết acid là chủ yếu, đồng thời các lớp cơ hoạt động mạnh do thường xuyên phải co bóp để nhào trộn thức ăn. Hơn nữa 2 vùng này vó mạng lưới mạch máu nuôi dưỡng hạn chế, nghèo nàn hơn so với các vị trí khác. Do đó các ổ loét nằm ở 2 vùng này rất khó liền, thiếu máu nuôi dưỡng, các vật liệu để hàn gắn tổn thương không được vận chuyển đến đủ, lâu ngày thành loét mạn tính và nguy cơ phát triển thành ung thư cao.
- Phân loại theo vi thể (cấp tế bào), ung thư dạ dày được chia thành ung thư biểu mô tuyến (chiếm chủ yếu, khoảng 95%), và các loại ung thư khác (như u lympho, u sarcoma)
- Ung thư biểu mô tuyến: Hầu hết (khoảng 90% đến 95%) ung thư dạ dày là ung thư tuyến biểu mô. Dạng này có nguồn gốc từ các tế bào hình thành lớp lót trong cùng của dạ dày (niêm mạc).
- Ung thư hạch: Đây là những bệnh ung thư của mô hệ thống miễn dịch đôi khi được tìm thấy trong thành dạ dày.
- Khối u mô đệm đường tiêu hóa (GIST): Những khối u hiếm này bắt đầu ở dạng tế bào trong thành dạ dày gọi là tế bào kẽ. Mặc dù GIST có thể được tìm thấy ở bất cứ đâu trong đường tiêu hóa, hầu hết được tìm thấy trong dạ dày.
- Khối u carcinoid: Những khối u này bắt đầu trong các tế bào tạo hormone của dạ dày. Hầu hết các khối u này không lan sang các cơ quan khác.
- Ung thư khác: Các loại ung thư dạ dày khác, như: Ung thư biểu mô tế bào vảy, ung thư biểu mô tế bào nhỏ và ung thư bạch cầu, cũng có thể bắt đầu trong dạ dày, nhưng những bệnh ung thư này rất hiếm.
Phân loại theo giải phẫu đại thể, gồm 3 thể bệnh chính:
- Ung thư thể loét: Ung thư có ổ loét với đường kính khoảng 2-4 cm, bờ méo mó lồi lên, mật độ cứng, có tổ chức ung thư ở bờ và đáy ổ loét.
- Ung thư thể sùi: Thể bệnh có khối u to sùi như súp lơ, đáy rộng, phát triển vào trong lòng dạ dày, đường kính khối u khoảng 3-4 cm, có khi to hơn chiếm toàn bộ lòng dạ dày.
- Ung thư thể thâm nhiễm: Thể bệnh có tình trạng thâm nhiễm nông trên niêm mạc dạ dày tạo thành những mảng cứng làm nếp niêm mạc bị dẹt xuống, cứng và dính vào các lớp sâu hơn của thành dạ dày
Nguyên nhân ung thư dạ dày
Về cơ chế hình thành, các bệnh ung thư có vẻ khá giống nhau. Tuy nhiên, mỗi loại ung thư lại có một yếu tố nguy cơ riêng biệt. Ung thư dạ dày là một bệnh có các yếu tố nguy cơ khá đặc trưng. Những yếu tố nguy cơ được phát hiện thông qua các thử nghiệm lâm sàng với những quy mô và đối tượng khác nhau.
- Ung thư dạ dày là kết quả của sự kết hợp của các yếu tố môi trường và tích lũy các thay đổi di truyền cụ thể. Mặc dù xu hướng giảm trên toàn thế giới, việc ngăn chặn ung thư dạ dày vẫn là ưu tiên hàng đầu. Do đó, việc tìm hiểu về nguyên nhân cũng như các yếu tố nguy cơ là vô cùng cần thiết.
- Vi khuẩn Helicobacter pylori: Nhiễm vi khuẩn Helicobacter pylori (H. pylori) dường như là nguyên nhân chính gây ung thư dạ dày, đặc biệt là ung thư ở phần dưới (phần xa) của dạ dày. Nhiễm H. pylori kéo dài có thể dẫn đến viêm (được gọi là viêm dạ dày teo mãn tính) và dẫn đến những thay đổi tiền ung thư của lớp lót bên trong của dạ dày. Những người bị ung thư dạ dày có tỷ lệ nhiễm H pylori cao hơn những người không bị ung thư này. Nhiễm H pylori cũng liên quan đến một số loại ung thư hạch dạ dày. Trong dân số nói chung, nhiễm H. pylori đạt khoảng 60%, tỉ lệ này ở những bệnh nhân ung thư dạ dày phổ biến hơn (84%).
- Thuốc chống viêm không steroid (NSAID): Aspirin và NSAID được chứng minh là tăng nguy cơ mắc chứng ung thư dạ dày. Mặt khác, các tác dụng phụ của nhóm thuốc này như chảy máu, thủng dạ dày, hoặc tắc nghẽn cũng có thể gây ra những tình trạng trầm trọng hơn của những biến chứng dạ dày.
Một số yếu tố liên quan đến chế độ sinh hoạt của bệnh nhân:
- Hút thuốc lá: Nhiều nghiên cứu đã xác nhận rằng hút thuốc lá làm tăng nguy cơ mắc ung thư dạ dày, cả phân nhóm cardia và noncardia (Ung thư dạ dày thực quản và không phải tâm vị). Người ta đã chứng minh rằng nguy cơ mắc ung thư dạ dày tăng 60% ở nam và 20% ở nữ hút thuốc so với những người không hút thuốc. Nguy cơ của ung thư dạ dày thấp hơn ở những người hút thuốc đã cai so với những người hút thuốc thường xuyên và những người hút thuốc có mức tiêu thụ thuốc lá cao hơn (> 20 điếu mỗi ngày).
- Rượu: Tiêu thụ rượu thường xuyên cũng dẫn đến ung thư dạ dày. Mối liên quan giữa lạm dụng rượu và ung thư dạ dày đã được báo cáo.
- Chế độ ăn nhiều nitrat: Nguy cơ ung thư dạ dày tăng được nhìn thấy ở những người có chế độ ăn kiêng có lượng lớn thực phẩm hun khói, cá và thịt muối, và rau ngâm. Nitrat và nitrit là những chất thường được tìm thấy trong các loại thịt được chế biến sẵn. Chúng có thể được chuyển đổi bởi một số vi khuẩn, chẳng hạn như H pylori, thành các hợp chất đã được chứng minh là gây ung thư dạ dày ở động vật thí nghiệm.
- Tiền sử gia đình: Năm 1998, các đột biến cắt ngắn của CDH1 đã được mô tả trong dòng mầm của ba gia đình Maori ở New Zealand có khuynh hướng di truyền ung thư dạ dày. Nói chung, rủi ro phát triển ung thư dạ dày được tính là tăng gấp 1,5 đến 3 lần ở những người có tiền sử gia đình mắc bệnh này trước đó.
- Một số yếu tố nguy cơ khác: Béo phì là một yếu tố nguy cơ của ung thư biểu mô dạ dày. Các yếu tố nguy cơ ít gặp hơn bao gồm thiếu máu ác tính, nhóm máu A. Cắt dạ dày cũng là một yếu tố nguy cơ của ung thư dạ dày.
Dấu hiệu ung thư dạ dày
Giai đoạn đầu
- Ung thư dạ dày giai đoạn đầu hiếm khi gây ra các triệu chứng có thể nhận thấy rõ rệt. Đây là một trong những lý do khiến ung thư dạ dày rất khó phát hiện sớm. Các dấu hiệu và triệu chứng của ung thư dạ dày có thể bao gồm: Ăn uống kém, giảm cân, rối loạn tiêu hóa, đau bụng không rõ nguyên nhân (thường khó chịu mơ hồ ở phần bụng trên rốn). Hầu hết các triệu chứng đều không đặc hiệu, hoàn toàn có thể do những chứng bệnh khác gây ra, dễ nhầm lẫn với bệnh do virus hoặc bệnh loét. Các triệu chứng này nếu gặp ở bệnh nhân ung thư dạ dày, theo thời gian sẽ tăng dần tần suất và mức độ.
- Trong các giai đoạn tiến triển hơn của ung thư dạ dày, các dấu hiệu và triệu chứng nặng hơn sau đây có thể xảy ra: Máu trong phân, nôn, giảm cân không rõ lý do, đau bụng, vàng da (vàng mắt và da), cổ trướng (do tích tụ chất lỏng trong bụng), khó nuốt.
Giai đoạn cuối
- Giai đoạn cuối của ung thư dạ dày khá tương tư với giai đoạn cuối của các bệnh ung thư khác với tình trạng di căn sang các mô khác, sự phát triển mạnh của khối u gây ra chèn ép các tổ chức lân cận. Với dạ dày, việc này có thể gây ra sự tắc nghẽn cơ học dẫn đến bệnh nhân không thể ăn bằng đường tiêu hóa thông thường. Bệnh nhân sẽ phải chịu những cơn đau trầm trọng (đau ung thư). Giai đoạn này có thể khiến người bệnh kiệt sức hoặc gây ra các biến chứng dẫn đến tử vong.
Ung thư dạ dày có nguy hiểm không?
- Ung thư biểu mô dạ dày (Stomach Cancer) là bệnh ác tính phổ biến thứ tư trên toàn thế giới (989.600 trường hợp mới mỗi năm trong năm 2008) và là nguyên nhân thứ hai gây tử vong (738.000 ca tử vong hàng năm) trong số tất cả các bệnh liên quan đến khối u ác tính trên toàn thế giới. Tỷ lệ sống sót sau 5 năm tương đối thấp, trừ duy nhất ở Nhật Bản, đạt tới 90%. Ở các nước châu Âu, tỷ lệ sống thay đổi từ 10% đến 30%. Nhìn chung, đây là một căn bệnh ác tính mạn tính với tiên lượng khá xấu.
- Hơn 50% các trường hợp mới xảy ra ở các nước đang phát triển. Các khu vực có nguy cơ cao là Đông Á (Trung Quốc và Nhật Bản), Đông Âu, Trung và Nam Mỹ. Các khu vực rủi ro thấp là Nam Á, Bắc và Đông Phi, Bắc Mỹ, Úc và New Zealand.
- Do đặc điểm phát triển thầm lặng ngay cả khi khối u đã có kích thước nhất định, việc chẩn đoán sớm ung thư dạ dày là vô cùng khó khăn. Các xét nghiệm tầm soát ung thư dạ dày thường quy mới chỉ được tiến hành ở Nhật Bản. Đó cũng là lí do giải thích cho tỉ lệ sống sót sau 5 năm phát hiện ung thư rất cao ở Nhật. Khi không được chẩn đoán sớm, người bệnh chỉ có thể phát hiện ra bệnh khi những triệu chứng đã rất rõ ràng hoặc thậm chí đã có biến chứng nặng xảy ra. Lúc này bệnh có thể đã vào những giai đoạn cuối, khả năng chữa trị hoàn toàn gần như không có. Bệnh nhân sẽ phải đối diện với những phác đồ điều trị khó và đòi hỏi kinh tế rất cao.
- Những thập kỉ gần đây đã ghi nhận sự sụt giảm về tỷ lệ mắc bệnh ung thư dạ dày đã được quan sát trên toàn thế giới. Tuy nhiên, căn bệnh này hiện vẫn là nguyên nhân tử vong đứng top đầu trong những loại ung thư và là gánh nặng kinh tế tương đối lớn với xã hội và ngành y tế.
Ung thư dạ dày có mấy giai đoạn?
Xác định giai đoạn của ung thư dạ dày là vô cùng cần thiết để bác sĩ đưa ra những phác đồ điều trị hợp lý để kéo dài thời gian sống cho bệnh nhân và đảm bảo chất lượng cuộc sống tốt nhất cho người bệnh. Có khá nhiều thang để phân chia giai đoạn của ung thư dạ dày.
Phân loại Adachi: Là hệ thống phân loại ra đời vào năm 1994 thường được sử dụng để đánh giá tình trạng bệnh của bệnh nhân. Hệ thống này phân loại giai đoạn bệnh theo tình trạng di căn.
- Giai đoạn A: Ung thư ở niêm mạc, hạ niêm mạc hoặc vào lớp cơ thành dạ dày
- Giai đoạn B: Ung thư đã lan tới lớp thanh mạc
- Giai đoạn Ca: Di căn từ 1-6 hạch
- Giai đoạn Cb: Di căn từ 7 hạch trở lên
- Giai đoạn D: Di căn xa
Phân loại TNM (Tumor Node Metastasis): Hệ thống phân loại này chi tiết hơn phân loại Adachi. Ngoài phan loại theo mức độ di căn, tùy vào loại ung thư T, N hay M mà ta có thể xác định được bản chất của ung thư bệnh nhân đang mắc phải.
Nhóm T: Khối u nguyên phát
- Tx Khối u nguyên phát không thể xác định được
- Tis Ung thư biểu mô tại chỗ
- T0 Không có u nguyên phát
- T1 U khu trú ở lớp niêm mạc, cơ niêm và hạ niêm mạc
- T1a U khu trú ở lớp niêm mạc và cơ niêm
- T1b U xâm lấn hạ niêm mạc
- T2 U xâm lấn tới lớp cơ
- T3 U xâm lấn mô liên kết dưới thanh mạc, chưa xâm lấn phúc mạc tạng và cấu trúc lân cận
- T4 U xâm lấn thanh mạc (phúc mạc tạng) hoặc cấu trúc lân cận
- T4a U xâm lấn thanh mạc (phúc mạc tạng)
- T4b U xâm lấn cấu trúc lân cận
Nhóm N: Các hạch lympho vùng
- NX Hạch vùng không thể xác định được
- N0 Không có di căn hạch vùng
- N1 Di căn 1-2 hạch vùng.
- N2 Di căn 3-6 hạch vùng
- N3 Di căn từ 7 hạch vùng trở lên
- N3a Di căn từ 7-15 hạch vùng
- N3b Di căn từ 16 hạch vùng trở lên
Nhóm M: Di căn xa
- MX Không thể xác định được di căn xa
- M0 Không có di căn xa
- M1 Di căn xa
Từ phân loại TNM, người ta hoàn toàn có thể quy về giai đoạn I, II, III, IV của ung thư.
Xét nghiệm ung thư dạ dày
Nội soi dạ dày
Nội soi dạ dày (còn được gọi là esophagogastroduodenoscopy hoặc EGD) là xét nghiệm chính được sử dụng để chẩn đoán ung thư dạ dày. Xét nghiệm này sẽ được chỉ định khi bệnh nhân có các yếu tố rủi ro nhất định hoặc khi các dấu hiệu và triệu chứng dẫn đến nghi ngờ ung thư dạ dày.
Với xét nghiệm này, bác sĩ sử dụng ống nội soi có gắn camera ở đầu ống, được luồn từ cổ họng xuống dạ dày. Điều này cho phép bác sĩ nhìn thấy niêm mạc thực quản, dạ dày và phần đầu tiên của ruột non. Nếu các khu vực bất thường được nhìn thấy, sinh thiết (mẫu mô) có thể được thực hiện bằng cách sử dụng các dụng cụ được truyền qua nội soi. Các mẫu mô được gửi đến phòng thí nghiệm, nơi chúng được nhìn bằng kính hiển vi để xem có phải ung thư hay không.
Khi nhìn qua ống nội soi, ung thư dạ dày có thể trông giống như một vết loét, một khối hình nấm hoặc nhô ra, hoặc các khu vực niêm mạc dày, phẳng, lan tỏa được gọi là viêm niêm mạc. Thường có 3 hình ảnh gặp khi nội soi:
▪ Thể loét: Ổ loét sùi, méo mó không đều, đáy ổ loét bẩn, hoại tử, bờ cao, dày, bề mặt nham nhở nhiều hạt to nhỏ không đều, có thể xuất hiện chảy máu trên ổ loét.
▪ Thể sùi: dạng khối u xù xì to nhỏ không đều, không có cuống. Trên bề mặt và giữa các khối u sùi có đọng các chất hoại tử với dịch nhày máu, đáy và niêm mạc xung quanh các u sùi cứng và không có nhu động.
▪ Thể thâm nhiễm: Rất khó nhận định.
Siêu âm nội soi (EUS)
Siêu âm sử dụng sóng âm thanh để tạo ra hình ảnh của các cơ quan như dạ dày. Trong siêu âm tiêu chuẩn, một đầu dò hình đũa gọi là đầu dò được đặt trên da. Đũa này phát ra sóng âm thanh và phát hiện tiếng vang khi chúng bật ra khỏi các cơ quan nội tạng. Mô hình tiếng vang được xử lý bởi máy tính để tạo ra hình ảnh đen trắng trên màn hình.
Phương pháp xét nghiệm này hữu ích nhất trong việc phát hiện ung thư có thể lan rộng đến thành dạ dày, đến các mô lân cận và đến các hạch bạch huyết gần đó. Xét nghiệm này cũng có thể được sử dụng để giúp dẫn kim vào khu vực đáng ngờ để lấy mẫu mô (sinh thiết).
Sinh thiết
Sinh thiết để kiểm tra ung thư dạ dày thường được lấy trong khi nội soi. Nếu bác sĩ nhìn thấy bất kỳ khu vực bất thường trong niêm mạc dạ dày trong khi nội soi, dụng cụ có thể được truyền qua nội soi để sinh thiết.
Một số thể ung thư dạ dày nằm sâu trong thành dạ dày, có thể khiến chúng khó sinh thiết với nội soi tiêu chuẩn. Nếu bác sĩ nghi ngờ ung thư có thể nằm sâu hơn trong thành dạ dày, siêu âm nội soi có thể được sử dụng để hướng dẫn một mũi kim mỏng, rỗng vào thành dạ dày để lấy mẫu sinh thiết.
Sinh thiết cũng có thể được lấy từ các khu vực có khả năng lây lan ung thư, chẳng hạn như các hạch bạch huyết gần đó hoặc các khu vực đáng ngờ trong các bộ phận khác của cơ thể.
Mẫu sinh thiết có thể được kiểm tra theo 2 cách khác nhau:
- Hóa mô miễn dịch (IHC): Trong thử nghiệm này, các kháng thể đặc biệt bám vào protein HER2 được áp dụng cho mẫu, khiến các tế bào thay đổi màu sắc nếu có nhiều bản sao. Sự thay đổi màu sắc này có thể được nhìn thấy dưới kính hiển vi. Kết quả kiểm tra được báo cáo là 0, 1+, 2+ hoặc 3+. Kĩ thuật IHC thường được ưu tiên nhất.
- Huỳnh quang trong lai tạo tại chỗ (FISH): Thử nghiệm này sử dụng các đoạn DNA huỳnh quang đặc biệt bám vào các bản sao của gen HER2 trong các tế bào, sau đó có thể được đếm dưới kính hiển vi đặc biệt.
+ Nếu kết quả là 0 hoặc 1+, ung thư là HER2 âm tính. Những người có khối u âm tính HER2 không được điều trị bằng thuốc (như trastuzumab) nhắm vào HER2.
+ Nếu xét nghiệm trở lại 3+, ung thư dương tính với HER2. Bệnh nhân có khối u HER2 dương tính có thể được điều trị bằng thuốc như trastuzumab.
+ Khi kết quả là 2+, tình trạng HER2 của khối u không rõ ràng. Điều này thường dẫn đến việc kiểm tra khối u bằng FISH.
Xét nghiệm hình ảnh
Các xét nghiệm hình ảnh sử dụng tia X, từ trường, sóng âm hoặc các chất phóng xạ để tạo ra hình ảnh bên trong cơ thể bạn. Đây là một xét nghiệm x-quang để xem xét lớp lót bên trong của thực quản, dạ dày và phần đầu của ruột non. Xét nghiệm này được sử dụng ít thường xuyên hơn so với nội soi để tìm ung thư dạ dày hoặc các vấn đề dạ dày khác, nhưng ít xâm lấn hơn nội soi.
Đối với xét nghiệm này, bệnh nhân uống một dung dịch cản quang có chứa một chất gọi là barium. Chất này bao phủ niêm mạc thực quản, dạ dày và ruột non. Một số hình ảnh X-quang điển hình của ung thư dạ dày là: Hình khuyết, hình cắt cụt tương ứng với thể sùi; hình thấu kính tương ứng với thể loét; hình mảng cứng và mất nhu động tương ứng với thể thâm nhiễm
Một kỹ thuật tương phản kép có thể được sử dụng để tìm kiếm ung thư dạ dày sớm.
Chụp cắt lớp (CT hoặc CAT)
Chụp CT sử dụng tia X để tạo ra hình ảnh chi tiết, cắt ngang của cơ thể. Không giống như chụp X-quang thông thường, chụp CT tạo ra hình ảnh chi tiết của các mô mềm trong cơ thể.
Quét CT cho hình ảnh dạ dày khá rõ ràng và thường có thể xác nhận vị trí của ung thư. Quét CT cũng có thể cho thấy các cơ quan gần dạ dày, chẳng hạn như gan, cũng như các hạch bạch huyết và các cơ quan xa nơi ung thư có thể đã lan rộng. Chụp CT có thể giúp xác định mức độ (giai đoạn) của ung thư và đưa ra quyết định làm phẫu thuật có thể là một lựa chọn điều trị tốt.
Quét cộng hưởng từ (MRI)
Giống như quét CT, quét MRI cho thấy hình ảnh chi tiết của các mô mềm trong cơ thể. Nhưng quét MRI sử dụng sóng radio và nam châm mạnh thay vì tia X.
Chụp cắt lớp phát xạ positron (PET)
Đối với chụp PET, bạn được tiêm một loại đường hơi phóng xạ, thu thập chủ yếu trong các tế bào ung thư. Một máy ảnh đặc biệt sau đó được sử dụng để tạo ra một bứ