Suy giãn tĩnh mạch chân: Nguyên nhân, triệu chứng, Cách chữa trị hiệu quả

Đánh giá post

Giãn tĩnh mạch là một căn bệnh tưởng mới nhưng lại không mới. Nhắc đến suy giãn tĩnh mạch, người ta thường hay để ý đến suy giãn tĩnh mạch chân (hay suy giãn tĩnh mạch chi dưới) do sự phổ biến và những nguy cơ tiềm ẩn của bệnh. Tỉ lệ mắc suy tĩnh mạch ở Việt Nam và trên thế giới là không hề thấp với tỉ số lần lượt là 62% và 80% ở người trưởng thành. Trong đó, tỷ lệ mắc bệnh ở nữ so với nam là 3 : 1. Bệnh suy giãn tĩnh mạch được biểu hiện với từng các cấp độ nguy hiểm khác nhau, trong đó, biến chứng nặng nề nhất có thể kể đến như viêm loét bàn chân, với 1% số bệnh nhân loét bàn chân có nguyên nhân là suy giãn tĩnh mạch. (Theo The epidemiology of chronic venous insufficiency and varicose veins. Ann Epidemiol 2005;15:175-184)
Đây là một vấn đề sức khỏe cần được quan tâm do theo thống kê, chi phí y tế cho điều trị và quản lý bệnh này chiếm khoảng 3% tổng chi phí chăm sóc y tế (Theo thống kê ở Pháp năm 2015)
Bài viết dưới đây Heal Central sẽ nêu những vấn đề chính và giải đáp một số câu hỏi thường gặp về bệnh suy giãn tĩnh mạch chi dưới.

Suy giãn tĩnh mạch chân (chi dưới) là bệnh gì?

Giãn tĩnh mạch (Varicose vein – VV): Là tình trạng tĩnh mạch có những biến đổi bất thường về giải phẫu, được đặc trưng bởi sự giãn bệnh lý (đường kính tĩnh mạch >3mm) của một hoặc một số tĩnh mạch nông.
Suy tĩnh mạch mạn tính (Chronic venous insufficiency – CVI): Là tình trạng bệnh lý trong đó có sự suy giảm chức năng của

Giãn tĩnh mạch: Là tình trạng tĩnh mạch có những biến đổi bất thường về giải phẫu
Giãn tĩnh mạch: Là tình trạng tĩnh mạch có những biến đổi bất thường về giải phẫu

hệ tĩnh mạch chi dưới do sự suy giảm chức năng của các van tĩnh mạch thuộc hệ tĩnh mạch nông và/hoặc hệ tĩnh mạch sâu. Bệnh có thể có tình trạng huyết khối tĩnh mạch sâu hoặc không.
Giãn tĩnh mạch mạng nhện, dạng lưới (Spider vein): Là tình trạng các tĩnh mạch nhỏ, nông bị giãn (<1mm) ở trong da hoặc dưới da.
Giãn tĩnh mạch chi dưới (Lower limb varicose veins) thường được gọi tắt là suy giãn tĩnh mạch là một biểu hiện phổ biến và có thể nhìn thấy của bệnh tĩnh mạch mạn tính.
Trong một nghiên cứu gần đây trên 77.000 bệnh nhân trên khắp Châu Âu, Châu Mỹ Latinh và Châu Á, tỷ lệ mắc bệnh giãn tĩnh mạch (CEAP loại C2 trở lên) là 45,3% ở phụ nữ và 34,5% ở nam giới. Tỷ lệ lưu hành bệnh khá cao đã gây lo ngại về gánh nặng y tế đặt ra cho các hệ thống y tế của các quốc gia. Theo dự đoán nhu cầu điều trị suy tĩnh mạch sẽ tăng lên trong những năm và thập kỷ tới khi dân số người già và người béo phì tiếp tục tăng theo tỷ lệ dân số nói chung.

Nguyên nhân gây bệnh giãn tĩnh mạch

Một vài nét về hệ thống tĩnh mạch chi dưới:
Hệ thống tĩnh mạch chi dưới là một phần của tuần hoàn chung đóng vai trò vận chuyển máu từ ngoại vi trở về tim. Có 2 hệ thống tĩnh mạch là tĩnh mạch nông và tĩnh mạch sâu.

  • Hệ thống tĩnh mạch nông: Là các tĩnh mạch nằm ngay dưới da bề mặt da bao gồm tĩnh mạch dài và tĩnh mạch ngắn. Các tĩnh mạch này có vai trò vận chuyển máu từ bề mặt (da và mô dưới da) vào trong các tĩnh mạch sâu.
  • Hệ thống tĩnh mạch sâu: Bao gồm tĩnh mạch xương chậu, tĩnh mạch xương đùi, tĩnh mạch khoeo và tĩnh mạch đùi sâu. Các tĩnh mạch sâu thường chạy song song với các động mạch tương ứng.

Hai hệ thống tĩnh mạch này được ngăn cách với nhau bởi các cơ và mô liên kết, chúng thông với nhau bởi một hệ thống tĩnh mạch thứ ba – các tĩnh mạch xuyên (perforating veins).
Các tĩnh mạch có van hình lưỡi liềm chia tĩnh mạch dài thành các đoạn. Các van này mở khi máu được đẩy về tim ngược chiều trọng lực và đóng lại ngay lập tức khi máu bắt đầu chảy ngược xuống dưới.

Một vài nét về hệ thống tĩnh mạch chi dưới:
Một vài nét về hệ thống tĩnh mạch chi dưới:

Bình thường, máu đi theo vòng tuần hoàn chung đi khắp cơ thể. Xuất phát điểm từ tim, máu được tim đập tống máu vào động mạch mang đầy oxy cho các cơ quan. Sau khi trao đổi khí và chất ở các mô cơ quan ở mao mạch, máu theo tĩnh mạch trở về. Tĩnh mạch chân với đặc điểm xa tim nhất do đó, cần có cơ chế đặc biệt để có thể đưa máu từ chân về tim. Theo sinh lý bình thường, máu từ tĩnh mạch chi dưới về tim theo 3 cơ chế:

  • Một là nhờ lực đẩy của chân trong lúc đi lại. Khi chân đạp xuống bề mặt, một phản lực của bề mặt sẽ tác dụng lên gang bàn chân, truyền vào hệ thống các tĩnh mạch bàn chân và đẩy dòng máu đi lên. Một cơ chế bổ sung nữa là sự vận động gây co bóp cơ bắp chân và đùi, tạo ra lực đẩy máu hướng lên trên thắng trọng lực.
Cơ chế thứ nhất gây suy giãn tĩnh mạch chân
Cơ chế thứ nhất gây suy giãn tĩnh mạch chân
  • Cơ chế thứ hai là lực hút lên được tạo ra khi hít thở. Sự hô hấp với sự giãn nở của lồng ngực kết hợp với sự phối hợp của các cơ, đặc biệt là cơ hoành tạo ra những chênh lệch áp suất khí động nhất định trong các kì hít vào, thở ra. Trong kì hít vào, lồng ngực mở ra, giúp cơ thể không chỉ có lực hút không khí từ ngoài vào và còn tạo lực hút cho máu từ tĩnh chi dưới hướng lên trên.
  • Cơ chế thứ 3, cũng là cơ chế rất quan trọng, được coi như một sự tiến hóa thích nghi của loài người, đó là hệ thống van trong lòng tĩnh mạch. Hệ thống van này có cấu tạo chính là những nếp gấp lên của lớp niêm mạc nội mô thành tĩnh mạch. Cấu trúc của van cho phép máu đi từ dưới lên trên nhưng ngăn cản không cho máu chảy ngược xuống dưới. Số lượng van tĩnh mạch là không cố định, mỗi cá thể sẽ có số lượng van tĩnh mạch khác nhau.

Chỉ cần xảy ra bất thường của 1 trong 3 cơ chế trên, việc vận chuyển máu về tim sẽ bị rối loạn. Khi máu không thể về tim, nó sẽ ứ lại ở tĩnh mạch, từ đó gây ra tình trạng suy, giãn, dần dần dẫn đến giãn tĩnh mạch mạn tính.

Lực hút lên được tạo ra khi hít thở là một cơ chế gây suy giãn tĩnh mạch chi dưới
Lực hút lên được tạo ra khi hít thở là một cơ chế gây suy giãn tĩnh mạch chi dưới

Cơ chế gây bệnh suy giãn tĩnh mạch

Nguyên nhân gây suy giãn tĩnh mạch ở mức độ phân tử vẫn còn bị tranh cãi nhưng khiếm khuyết cơ bản về mặt giải phẫu đã được đồng thuận. Nguyên nhân là do van tĩnh mạch mất hoặc giảm khả năng đóng van ngăn dòng máu trào ngược dẫn đến các tĩnh mạch nông bị giãn ra. Yếu tố chính góp phần vào sự phát triển và tiến triển của chứng giãn tĩnh mạch là tăng huyết áp tĩnh mạch kéo dài từ đó làm tăng đường kính của các tĩnh mạch nông dẫn đến trầm trọng thêm sự suy sụp của hệ thống van.

Bất thường van

Suy hoặc mất khả năng đóng van dẫn đến sự bất lực của van và gây ra dòng trào ngược của máu. Từ đó có thể ảnh hưởng đến hệ thống tĩnh mạch sâu và tĩnh mạch nông và có thể là nguyên nhân nguyên phát hoặc thứ phát của giãn tĩnh mạch.
Bất lực van có thể là do sự yếu kém về phát triển trong thành tĩnh mạch dẫn đến sự mở rộng thứ phát của các van tĩnh mạch, dẫn đến bất lực van tim và suy giãn tĩnh mạch nguyên phát. Tình trạng này cũng dễ kéo theo huyết khối, phổ biến nhất trong hệ thống tĩnh mạch sâu; huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT). Khi xuất hiện huyết khối tĩnh mạch sâu, máu chảy trong lòng tĩnh mạch cung cấp cho nội mô mạch máu oxy và dinh dưỡng bị ngăn lại, dẫn đến nội mô xung quanh các tĩnh mạch bị hoại tử và viêm. Tình trạng này có nguy cơ tái phát cao do tĩnh mạch thường bị sẹo và hẹp và do các van đã bị phá hủy. Nếu tái phát không xảy ra, máu buộc phải tìm một đường khác: Ví dụ, máu có thể bị đẩy ra khỏi hệ thống tĩnh mạch sâu thông qua hệ thống tĩnh mạch xuyên dẫn đến giãn các tĩnh mạch nông (giãn tĩnh mạch thứ phát).
Hiếm khi, suy giảm van van bẩm sinh, hoặc dị dạng động mạch là nguyên nhân gây suy giãn tĩnh mạch hoặc giãn tĩnh mạch mạn tính. Ví dụ, trong hội chứng Klippel-Trenaunay, có sự giảm âm tĩnh mạch sâu và một phức hợp tĩnh mạch được đặt bên cạnh hoạt động như dòng chảy tĩnh mạch chính của chi. Tất cả các triệu chứng và dấu hiệu của suy tĩnh mạch mạn tính là do tăng huyết áp tĩnh mạch cấp cứu do các quá trình bệnh lý khác nhau tác động lên các vi mạch của da và các mô dưới da.

Suy giảm trương lực cơ

Bất kỳ nguyên nhân gây suy giảm trương lực hoặc liệt cơ ví dụ như tuổi già, đột quỵ, tình trạng thần kinh cơ, viêm khớp và chấn thương hoặc ngăn chặn chuyển động mắt cá chân có tác động đặc biệt bất lợi đối với cơ chế lực đẩy từ bàn chân.

Tuần hoàn tĩnh mạch bị chèn ép

Phụ nữ có thai có thể khiến tuần hoàn chèn ép gây suy giãn tĩnh mạch chân
Phụ nữ có thai có thể khiến tuần hoàn chèn ép gây suy giãn tĩnh mạch chân

Ở những bệnh nhân bị suy giãn tĩnh mạch thường có bất thường tuần hoàn máu tĩnh mạch trong chân. Một số nguyên nhân có thể dẫn đến chèn ép tuần hoàn có thể là: Khối u, hội chứng Cockett, mang thai hoặc thể thao.
Bệnh nhân bị trào ngược tĩnh mạch nông nhẹ và bơm bắp chân vẫn hiệu quả có thể bù đắp cho điều này bằng cách tăng “thể tích đột quỵ” của bơm bắp chân và sản lượng. Điều này cho phép họ vẫn giảm áp lực xuống mức (gần) bình thường khi đi bộ. Tuy nhiên, trào ngược nghiêm trọng và bơm cơ yếu có thể lấn át hệ thống sâu và dẫn đến tăng huyết áp tĩnh mạch kéo dài và thay đổi da của bệnh nhân suy giãn tĩnh mạch mạn tính.

Bệnh suy giãn tĩnh mạch chân có nguy hiểm không?

Giãn tĩnh mạch là bệnh lí có thể dẫn đến tình trạng nổi rõ và phình to của các tĩnh mạch chân. Đôi khi, tình trạng này chỉ ảnh hưởng đến vấn đề thẩm mĩ, thường là giãn tĩnh mạch mạng nhện. Giãn tĩnh mạch có thể ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng cuộc sống. Nhẹ nhàng nhất, vấn đề thẩm mĩ ảnh hưởng đến 70% những người mắc suy giãn tĩnh mạch.
Tuy nhiên, giãn tĩnh mạch và tĩnh mạch mạng nhện khác nhau, giãn tĩnh mạch có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe trầm trọng hơn. Đặc biệt khi giãn tĩnh mạch có kèm triệu chứng đau có thể là báo hiệu của một tình trạng nặng nề hơn.
Giãn tĩnh mạch kèm đau có thể là một dấu hiệu của một vấn đề nghiêm trọng hơn, như: Huyết khối, loét hoặc nhiễm trùng da. Những nguy hiểm tiềm ẩn sau có thể xảy ra nếu suy giãn tĩnh mạch không được điều trị:

  • Sưng chân – Khi áp lực tích tụ trong tĩnh mạch, chất lỏng trong lòng mạch có thể rò rỉ vào các mô xung quanh, gây sưng. Dấu hiệu sưng có thể bao gồm cảm giác căng cứng trên da hoặc các vết lằn da sau khi tháo tất hoặc giày. Trong trường hợp nghiêm trọng hơn, bàn chân có thể sưng lên khá lớn. Thậm chí, huyết tương có thể thoát ra khỏi da. Nếu đã sử dụng các biện pháp như vớ nén mà chân vẫn sưng, da có thể trở nên cứng hoặc thay đổi màu da.
  • Loét da – Một khi da có sự đổi màu, khả năng chữa lành vết thương bị suy giảm. Nguyên nhân là do các mô bị sưng hạn chế dòng chảy của chất dinh dưỡng và oxy đến các mô liên qua. Sự giảm dinh dưỡng liên tục trên các mô cũng có thể ngăn ngừa chữa lành, tạo ra vết loét không lành.
  • Nhiễm trùng da – Khi các mô bị kéo căng do sưng, điều này cản trở cơ chế bảo vệ tự nhiên của cơ thể chống lại nhiễm trùng. Những vi khuẩn thường trú trên da có thể xâm nhập vào cơ thể, gây nhiễm trùng da. Sưng có thể tăng và thường sẽ có một khu vực đỏ nóng.
  • Chảy máu – Trong giãn tĩnh mạch, lượng máu trong mạch lớn hơn so với bình thường. Nếu tĩnh mạch bị đứt, có thể có một lượng chảy máu đáng kể. Hoặc, xuất huyết dưới da tạo ra những vùng thâm. Chảy máu cũng lâu lành hơn so với người thường.
  • Viêm tắc tĩnh mạch – Sự bất thường của vận chuyển máu trong mạch có thể gây ra hình thành các cục máu đông. Có tới 3% số người bị giãn tĩnh mạch sẽ phát triển cục máu đông.
  • Huyết khối tĩnh mạch sâu – chiếm khoảng 25% trong số bệnh nhân có cục máu đông trong giãn tĩnh mạch. Huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT) là một tình trạng y tế nghiêm trọng cần điều trị cấp cứu. Chân có thể bị sưng, nóng, đỏ và đau. Nguy cơ lớn nhất là một phần hoặc toàn bộ cục máu đông có thể vỡ ra và di chuyển đến phổi, gây ra tình trạng đe dọa tính mạng được gọi là thuyên tắc phổi.

Bệnh suy giãn tĩnh mạch chân có nguy hiểm không?
Bệnh suy giãn tĩnh mạch chân có nguy hiểm không?

Trên đây là những nguy cơ tiềm ẩn có thể gặp phải nếu như không điều trị hay coi thường bệnh. Do vậy, hãy luôn lắng nghe cơ thể và điều trị bệnh tích cực.

Những ai thường mắc phải giãn tĩnh mạch chi dưới?

Tỉ lệ mắc suy giãn tĩnh mạch là khá cao trong dân số (Khoảng 70%). Đây là bệnh có khá nhiều yếu tố nguy cơ, khiến cho tỷ lệ mắc bệnh ngày càng tăng.
Giãn tĩnh mạch là một rối loạn di truyền. Các gen quy định nhiễm sắc thể (không phải nhiễm sắc thể giới tính) bị thay đổi bởi một số yếu tố môi trường. Ví dụ, nội tiết tố nữ khác nhau estrogen và progesterone, kích hoạt gen. Lao động nặng, béo phì và đứng lâu cũng có thể kích hoạt gen theo thời gian. Một thử nghiệm lâm sàng đã chỉ ra rằng: Gần 50% bệnh nhân suy tĩnh mạch có tiền sử gia đình mắc bệnh; Khả năng bạn bị giãn tĩnh mạch là hơn 90% nếu cả bố và mẹ đều mắc bệnh; Trong gia đình có bố hoặc mẹ suy giãn tĩnh mạch thì Con gái có 60% nguy cơ và con trai có 25% nguy cơ mắc bệnh.
Giới tính nữ: 1 nghiên cứu tiến cứu bao gồm 290 người tham gia cho thấy ở nữ giới tỉ lệ mắc bệnh là cao hơn và nguy cơ tiến triển bệnh cũng nhanh hơn. Giãn tĩnh mạch ảnh hưởng đến phụ nữ nhiều hơn nam giới: 55% phụ nữ và 45% nam giới.
Tuổi: Tuổi cao kèm theo sự suy giảm của hệ thống tuần hoàn và cơ là các bệnh mắc kèm và lối sống tĩnh tại khác sẽ là điều kiện để phát triển bệnh suy giãn tĩnh mạch. Theo một tổng quan trong Guidelines của NICE, ước tính 41% phụ nữ trên 50 tuổi bị giãn tĩnh mạch.
Chỉ số khối của cơ thể (BMI): Các nghiên cứu tiến cứu đã chỉ ra rằng, phụ nữ thừa cân vừa phải có nguy cơ mắc bệnh giãn tĩnh mạch tăng 50%. Phụ nữ có chỉ số BMI lớn hơn 30 có khả năng bị giãn tĩnh mạch gấp 3 lần so với người có BMI <30.
Ánh nắng mặt trời (tia UV) cũng được cho là một yếu tố nguy cơ gây suy giãn tĩnh mạch. Sức nóng từ mặt trời có thể làm cho các tĩnh mạch giãn ra, mở rộng gây ra chứng tắc tĩnh mạch. Rối loạn tĩnh mạch là khi các tĩnh mạch sưng lên vì chúng chứa nhiều máu hơn nên chảy qua tĩnh mạch. Với sự gia tăng của máu, các tĩnh mạch sẽ phát triển kích thước lớn hơn và rất có thể bị tổn thương nhiều hơn. Do đó, những người thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời cũng có nguy cơ mắc suy giãn tĩnh mạch chân cao hơn.

Những ai thường mắc phải giãn tĩnh mạch chi dưới?
Những ai thường mắc phải giãn tĩnh mạch chi dưới?

Mang thai làm tăng nguy cơ phát triển nhện và giãn tĩnh mạch: Do bản thân việc mang thai đã làm ứ trệ tuần hoàn chi dưới do áp lực của thai nhi gây lên huyết động.
Một số yếu tố khác như công việc yêu cầu đứng quá lâu hoặc ngồi quá lâu, các thức ăn nhanh cũng được tổng kết là tăng nguy cơ mắc suy giãn tĩnh mạch.

Triệu chứng của suy giãn tĩnh mạch chi dưới

Các triệu chứng phổ biến nhất và dễ nhận thấy nhất khi mắc bệnh giãn tĩnh mạch như: Chân cảm thấy nặng nề và sưng lên, đặc biệt là vùng quanh mắt cá chân. Da cũng có thể cảm thấy căng tức hoặc ngứa. Các triệu chứng thường trở nên tồi tệ hơn vào cuối ngày – đặc biệt là sau khi ngồi hoặc đứng trong thời gian dài. Giãn tĩnh mạch đôi khi gây đau hoặc chuột rút ở cơ bắp chân vào ban đêm. Thời tiết ấm áp thường làm cho các triệu chứng tồi tệ hơn.

Thay đổi da chi dưới

Thay đổi da chi dưới (như sắc tố hoặc chàm) được cho là do suy tĩnh mạch mạn tính. Da chân của bệnh nhân thay đổi thường liên quan đến tăng huyết áp tĩnh mạch hơn nguy cơ phát triển loét chân tĩnh mạch. Do đó, bệnh nhân nên xem xét điều trị tăng huyết áp.

Chảy máu tĩnh mạch

Chảy máu do giãn tĩnh mạch có thể đe dọa tính mạng và cần được xử trí ngay lập tức. Những bệnh nhân có tiền sử xuất huyết tĩnh mạch nhỏ có thể dẫn đến nguy cơ tái xuất huyết với tình trạng nặng hơn là rất cao.

Giảm khả năng chữa lành vết loét tĩnh mạch chân

Một vết thương hở ở vùng da dưới đầu gối không lành trong vòng 2 tuần là hiện tượng gợi ý bệnh động mạch hoặc tĩnh mạch.

Điều trị giãn tĩnh mạch chân

Điều trị giãn tĩnh mạch chân
Điều trị giãn tĩnh mạch chân

Quy trình điều trị suy giãn tĩnh mạch chân cần trải qua 3 bước cơ bản: Đánh giá tình trạng bệnh, Điều trị, Đánh giá lại đáp ứng của bệnh nhân với liệu pháp điều trị.

Đánh giá tình trạng bệnh

Có khá nhiều cách phân loại bệnh, tuy nhiên thang phân loại hay được sử dụng nhất là hệ thống CEAP (từ năm 1995). Đây là hệ thống phân loại được áp dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Hệ thống này gồm 4 tiêu chí: C (Clinic) – phân theo triệu chứng biểu hiện lâm sàng, E (Etiology) – nguyên nhân: Bệnh suy tĩnh mạch tiên phát do nguyên nhân bẩm sinh hay là bệnh thứ phát, A (Anatomique) – vị trí giải phẫu, P (pathogénie) – Cơ chế bệnh sinh: Đơn cơ chế trào ngược hoặc tắc nghẽn, đa cơ chế cả trào ngược và tắc nghẽn.
Ngoài ra, trong quá trình thực hành lâm sàng, các chuyên gia đã mở rộng và phát triển hệ thống CEAP nâng cao (từ năm 2004). Trong đó, với mỗi tiêu chí, sẽ có các mức độ cấp bậc khác nhau. Từ đó, giúp mô tả rõ hơn về tình trạng bệnh nhân.
C: Clinic – Lâm sàng. Đây là nhóm phân loại giúp đánh giá được giai đoạn bệnh của bệnh nhân. Do vậy, các C khác nhau sẽ nhận được những cách tiếp cận và điều trị khác nhau.
C0: Không có biểu hiện bệnh lý tĩnh mạch có thể quan sát hoặc sờ thấy.
C1: Giãn mao tĩnh mạch mạng nhện hoặc dạng lưới với đường kính ø < 3 mm.
C2: Giãn tĩnh mạch có đường kính ø > 3 mm.
C3: Phù chi dưới, tuy nhiên chưa có biểu hiện trên da
C4: Bắt đầu có những biến đổi về da do những bất thường của hệ tĩnh mạch. Ở mức độ này, chia làm 2 bậc nhỏ hơn:

      • C4a: Rối loạn sắc tố và/hoặc chàm tĩnh mạch
      • C4b: Xơ mỡ da và/hoặc teo trắng kiểu Milian

C5: Có loét, tuy nhiên loét đã liền sẹo
C6: Có loét, đang tiến triển.

Các mức độ, cấp bậc giứp mô tả rõ hơn về tình trạng bệnh suy giãn tĩnh mạch chi dưới
Các mức độ, cấp bậc giứp mô tả rõ hơn về tình trạng bệnh suy giãn tĩnh mạch chi dưới

E: Etiologie: Nguyên nhân: 4 nhóm nguyên nhân

    • Ec: Bẩm sinh (Giãn tĩnh mạch bẩm sinh, bất thường van tĩnh mạch bẩm sinh)
    • Ep: Tiên phát (Bất thường một số gen)
    • Es: Thứ phát (Giãn tĩnh mạch sau huyết khối tĩnh mạch
    • En: Không xác định được nguyên nhân tĩnh mạch.

A: Anatomique: Giải phẫu. Với các tĩnh mạch chi dưới được đánh số từ 1 đến 18. Tuy vào vị trí tĩnh mạch nào bị suy giãn mà bác sĩ sẽ kết luận: Tĩnh mạch mạng nhện hoặc dạng lưới, Tĩnh mạch hiển lớn trên khoeo, Tĩnh mạch chủ dưới, Tĩnh mạch chậu chung, Tĩnh mạch tiểu khung, Tĩnh mạch đùi sâu, Tĩnh mạch khoeo, Tĩnh mạch cẳng chân, v…v…

      • As: Suy giãn tĩnh mạch nông
      • Ad: Suy giãn tĩnh mạch sâu
      • Ap: Suy giãn tĩnh mạch xuyên
      • An: Không xác định vị trí.

P: Pathologénie: Bệnh sinh. Phân loại theo cơ chế bệnh sinh có ý nghĩa chủ yếu trong việc nghiên cứu lâm sàng.

      • Pr: Suy giãn do trào ngược
      • Po: Suy giãn do tắc nghẽn
      • Pr,o: Suy giãn do trào ngược và tắc nghẽn
      • Pn: Suy giãn không rõ nguyên nhân.

Sau khi thăm khám, sử dụng các thủ thuật và các xét nghiệm cận lâm sàng, bác sĩ sẽ đưa ra được kết luận về tình trạng bệnh của bệnh nhân. Từ đó, đề ra những phác đồ điều trị hợp lí với từng thể và từng giai đoạn bệnh.

Điều trị suy giãn tĩnh mạch

Các phương pháp điều trị bệnh suy giãn tĩnh mạch chân bao gồm: Điều trị dự phòng bằng thói quen sinh hoạt, điều trị bằng thuốc, can thiệp (bằng nhiệt, bằng hóa học, hóa cơ học, hóa nhiệt học), phẫu thuật ngoại khoa.

Tuân thủ thói quen sinh hoạt để ngừa bệnh

Đây là phương pháp rất quan trọng trong điều trị suy giãn tĩnh mạch và ngăn ngừa bệnh tiến triển. Trong những giai đoạn đầu, nếu tuân thủ các thói quen sinh hoạt này, bệnh nhân có thể không cần uống thuốc hoặc can thiệp dược lí nào mà vẫn ổn định được bệnh trong một thời gian dài. Các biến pháp cơ bản là:

Tuân thủ thói quen sinh hoạt để ngừa bệnh
Tuân thủ thói quen sinh hoạt để ngừa bệnh

Tăng cường sử dụng chức năng bơm của cơ: Bệnh nhân cần tránh đứng bất động trong thời gian dài, nếu yêu cầu công việc đòi hỏi cần đứng lâu, bạn cần tự đặt khoảng thời gian để chuyển tư thế như đi lại, ngồi xuống một lúc rồi mới tiếp tục đứng tại chỗ. Bạn cần bỏ thói quen ngồi bắt chéo chân do dáng ngồi này tạo ra áp lực nén xuống, ngăn cản dòng máu thừ chân về tim. Để cơ thể trong tình trạng tĩnh tại lâu cũng là một thói quen không tốt cần bỏ, ngồi quá lâu, nằm quá lâu không thay  đổi tư thế đều khiến bệnh trở nên trầm trọng hơn. Bệnh nhân được khuyến khích hoạt động thể chất phù hợp với giai đoạn bệnh. Chú ý không nên tập luyện quá sức hoặc thực hiện các bài tập có cường độ quá cao, có thể gây phản tác dụng.
Tạo điều kiện thuận lợi cho hồi lưu tĩnh mạch: Đây là thói quen rất đơn giản nhưng có tác dụng tốt với bệnh nhân suy giãn tĩnh mạch ở bất cứ giai đoạn nào. Khi ngủ, nâng cao chân cao hơn tim, phương pháp đơn giản nhất là dùng gối kê chân hoặc nâng phía cuối giường ngủ lên khoảng 10 cm. Một bài vận động chân giống như đạp xe trong không khí trước khi ngủ cũng là một biện pháp giúp tuần hoàn tĩnh mạch về tim dễ hơn trong khi ngủ.
Tránh tiếp xúc trực tiếp với nhiệt độ cao: Như trong phân tích về cơ chế bệnh sinh và các yếu tố nguy cơ, việc tiếp xúc với nhiệt độ cao sẽ dẫn đến tình trạng phình tĩnh mạch nghiêm trọng hơn. Sai lầm này rất dễ mắc phải do một số người có thói quen chườm nóng, chườm các loại lá rang khi bị sưng chân.
Chế độ dinh dưỡng phù hợp: Một chế độ dinh dưỡng phù hợp dành cho bệnh nhân suy giãn tĩnh mạch là bữa ăn ít chất béo và nhiều chất xơ. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tình trạng táo bón thường xuyên hoặc lâu ngày có mối liên quan khác chặt chẽ đến bệnh suy giãn tĩnh mạch. Do đó, hạn chế táo bón cũng là một vấn đề mà bệnh nhân suy giãn tĩnh mạch nên chú ý.

Thuốc điều trị suy giãn tĩnh mạch chân

Đây là phương pháp đang được áp dụng phổ biến nhất do sự thuận tiện của nó. Tuy nhiên, liệu pháp này cơ bản chỉ có tác dụng với tình trạng bệnh nhẹ (từ C0 đến C1). Trong trường hợp nặng hơn, can thiệp nội khoa này sẽ chỉ là liệu pháp phối hợp. Một số liệu pháp thuốc đã được chứng minh là cải thiện các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh nhân bị giãn tĩnh mạch và suy giãn tĩnh mạch mạn tính. Những loại thuốc này, chẳng hạn như phần flavonoid tinh khiết micronized (MPFF), canxi dobesilate và hydroxyl-ethyl rutoside, có tác dụng chống viêm và có thể cải thiện trương lực tĩnh mạch. Chúng có thể làm giảm đáng kể đau, cảm giác nặng nề, sưng, chuột rút, phù nề và các biện pháp khó chịu khác ở bệnh nhân mắc suy giãn tĩnh mạch chi dưới, và do đó cải thiện triệu chứng và tiên lượng bệnh.

Sử dung thuốc để điều trị suy giãn tĩnh mạch chân
Sử dung thuốc để điều trị suy giãn tĩnh mạch chân

Một sản phẩm khá nổi tiếng trong điều trị suy giãn tĩnh mạch là Daflon: Thuốc có thành phần là flavonoid tinh khiết micronized gồm Diosmin và Hesperidin. Thuốc đã được chứng minh hiệu quả trong rất nhiều thử nghiệm lâm sàng. Ngoài tác động có lợi rõ rệt của nó đối với đau sau phẫu thuật, Daflon giúp giảm xuất huyết liên quan đến thủ thuật tĩnh mạch phẫu thuật. Điều trị bằng Daflon (hoặc MPFF nói chung) cũng liên quan đến việc giảm cường độ của các triệu chứng cụ thể ở suy giãn tĩnh mạch chi dưới (ví dụ: Cảm giác nặng chân, mỏi chân, ngứa, chuột rút, v.v.). Dịch chiết flavoinoid tinh khiết cũng có thể tạo ra một số tác dụng này ở bệnh nhân điều trị xơ cứng vì tác dụng làm giảm nồng độ của hai cytokine tiền viêm (protein phản ứng C và interleukin 1) và Histamine.
Trong các hướng dẫn điều trị suy giãn tĩnh mạch, thuốc bổ trợ cũng có vai trò nhất định.
Bệnh nhân suy tĩnh mạch mạn tính có thể được chỉ định thuốc trợ tĩnh mạch để cải thiện triệu chứng và giảm phù.
Ở bệnh nhân có loét lớn do tĩnh mạch, loét kéo dài và hay tái phát nên được chỉ định flavonoid dạng siêu mịn hoặc pentoxifilline phối hợp với biện pháp điều trị áp lực. Liệu pháp điều trị này cho thấy hiệu quả khá cao và có mức bằng chứng đáng tin trong lâm sàng.
Trong các loại thuốc, Diosmin hoặc Hesperidin có thể được chỉ định để điều trị chuột rút và phù do nguyên nhân tĩnh mạch. Trong khi đó, Rutosides được chỉ định điều trị phù. Các chỉ định được công nhận chủ yếu là điều trị triệu chứng. Do đó, các thuốc sẽ chỉ được dùng đơn độc khi bệnh nhân ở giai đoạn bệnh nhẹ (C0 đến C1). Khi bệnh tiến triển, thuốc sẽ chỉ là liệu pháp hỗ trợ để cải thiện triệu chứng và nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.
Vớ (băng thun) tĩnh mạch: Tất áp lực hoặc băng chun áp lực là chỉ định hàng đầu để điều trị loét do nguyên nhân tĩnh mạch. Tuy nhiên, sử dụng tất hay băng thun để điều trị áp lực không phải là chỉ định ưu tiên cho bệnh nhân có suy tĩnh mạch hiển có chỉ định can thiệp điều trị. Ngoài ra, phương pháp áp lực này còn được chỉ định trong điều trị phối hợp với can thiệp/phẫu thuật tĩnh mạch nông để đề phòng loét tái phát. Chỉ định của vớ (băng thun tĩnh mạch) trải dài từ C1 đến C6. Các chỉ định cụ thể như sau:
Băng thun tĩnh mạch
băng thun tĩnh mạch

  • Dự phòng tiến triển nặng lên của suy tĩnh mạch chi dưới mạn tính trong những nghề nghiệp buộc phải đứng nhiều.
  • Dự phòng suy tĩnh mạch chi dưới mạn tính trong thời gian mang thai.
  • Giảm các dấu hiệu cơ năng của suy tĩnh mạch chi dưới mạn tính như phù chân, sưng chân.
  • Bệnh nhân có chống chỉ định hoặc không có khả năng phẫu thuật hay tiêm xơ điều trị suy tĩnh mạch trong các trường hợp bệnh tiến triển.
  • Điều trị hỗ trợ trong các trường hợp loạn dưỡng nguyên nhân tĩnh mạch, phù bạch mạch.

Tùy vào mức độ nặng của bệnh, tất với các áp lực khác nhau được tăng dần. Với trường hợp suy giãn tĩnh mạch nhẹ, bệnh nhân sẽ được chỉ định tất nén độ 1 với áp lực khoảng 10 đến 15 mmHg. Với các chỉ định dự phòng và chỉ định cho suy giãn tĩnh mạch trung bình, tất áp lực độ 2 với áp lực tương đương 15 – 20 mmHg. Tất độ 3 với áp lực khoảng 20 đến 36 mmHg phù hợp cho các trường hợp suy giãn tĩnh mạch độ 3, điều trị loạn dưỡng, điều trị huyết khối tĩnh mạch sâu. Tất độ 4 với áp lực cao nhất được áp dụng trong loạn dưỡng trầm trọng hoặc phù bạch mạch.

Điều trị suy giãn tĩnh mạch bằng tiêm xơ:

Điều trị suy giãn tĩnh mạch bằng tiêm xơ
Điều trị suy giãn tĩnh mạch bằng tiêm xơ

Nguyên lí của phương pháp này là tiên một chất gây xơ vào lòng tĩnh mạch nông. Chất xơ này sẽ gây tổn thương nội mạc thành mạch và tổn thương các vùng lân cận của lớp trung mạc. Sự tổn thương này dần dần sẽ dẫn đến hình thành huyết khối làm tắc lòng tĩnh mạch bị suy. Phương pháp này được cho là khá tối ưu, tuy nhiên chỉ áp dụng được trong một số trường hợp nhất định:

  • Bệnh nhân có suy giãn thân tĩnh mạch hiển, nhưng chỉ tiêm xơ khi đường kính tĩnh mạch giãn không quá 1 cm.
  • Suy giãn các tĩnh mạch xuyên, có thể gây giãn tĩnh mạch tái phát nếu không điều trị.
  • Giãn các tĩnh mạch bàng hệ của hệ tĩnh mạch hiển, trong trường hợp tĩnh mạch hiển đó đã điều trị tình trạng giãn trước đó.

Phương pháp tiêm xơ có chống chỉ định trong trường hợp bệnh nhân có dị ứng với thuốc tiêm xơ, bệnh nhân đang có huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới trong giai đoạn cấp.Bệnh nhân suy giãn tĩnh mạch có kèm theo rối loạn đông máu hoặc đang điều trị chống đông Người bệnh đang có bệnh động mạch chi dưới hoặc đang có thai cũng không được áp dụng phương pháp này.
Trước khi chỉ định thủ thuật này, cần phải cân nhắc thận trọng do tiên xơ có thể xảy ra một số biên chứng, đôi khi là khá nặng nề. Nặng nề nhất là sơ suất trong quá trình tiêm, tiêm vào động mạch có thể gây tắc động mạch cấp, có nguy cơ phải cắt cụt chi. Do tiêm xơ cần tiêm một lượng thuốc không nhỏ, do đó có thể gây ra hiện tượng viêm tắc tĩnh mạch hoặc xung quanh tĩnh mạch. Đôi lúc, viêm dưới da, đám rối, hoại tử da có thể xảy ra.
Trong các dạng, tiêm xơ dạng bọt được cho là an toàn và có hiệu quả lâm sàng tốt nhất đã được chứng minh trong nhiều thử nghiệm lâm sàng. Tiêm xơ dạng bọt có thể được chỉ định cho bệnh nhân có dòng trào ngược tĩnh mạch hiển có triệu chứng, giãn tĩnh mạch từ độ C2 đến C6 hoặc giãn tĩnh mạch tái phát. Tiêm xơ bằng bọt có thể được chỉ định để điều trị cho những bệnh nhân có suy tĩnh mạch hiển, tĩnh mạch bàng hệ, tĩnh mạch xuyên có kèm loét, viêm da sắc tố hoặc dị dạng tĩnh mạch.
Trong khi đó, bệnh nhân có giãn tĩnh mạch mạng nhện hoặc dạng lưới có thể sử dụng tiêm xơ dưới dạng dung dịch, hoặc bọt.

Điều trị suy giãn bằng nhiệt nội tĩnh mạch

Điều trị suy giãn bằng nhiệt nội tĩnh mạch
Điều trị suy giãn bằng nhiệt nội tĩnh mạch

Cơ sở lý thuyết và nguyên tắc của phương pháp này là phá hủy tĩnh mạch bị suy bằng lượng nhiệt vừa đủ, lượng nhiệt này sẽ gây ra những phản ứng sinh lý không thuận nghịch.
Quy trình của phương pháp gồm 5 bước:

  • Đầu tiên, bác sĩ sẽ chọc tĩnh mạch dưới hướng dẫn của siêu âm.
  • Theo hướng dẫn của siêu âm, bạc sĩ sẽ luồn desilet và dây dẫn (guidewire) vào bên trong phần tĩnh mạch suy.
  • Luồn sợi đốt RF hoặc laser (Với khonagr cách lưu ý cách quai tĩnh mạch hiển 2 cm)
  • Bệnh nhân được gây tê tại chỗ xung quanh tĩnh mạch.
  • Cuối cùng bệnh nhân được tiến hành đốt bằng dây RF hoặc laser.

Có 2 lựa chọn được sử dụng trong lâm sàng là nhiệt bằng sóng radio cao tần và nhiệt bằng tia laser. Cụ thể, bệnh nhân sẽ được luồn 1 sợi đốt RF hoặc laser vào đúng tĩnh mạch đang bị giãn theo điều hướng của siêu âm. Nhờ vậy, can thiệp này rất khu trú, nhanh và liền sẹo cũng rất nhanh. Bệnh nhân không cần nằm viện và có thể bình phục trong thời gian ngắn.
Phương pháp nội nhiệt tĩnh mạch được chỉ định trong những trường hợp:

  • Điều trị suy tĩnh mạch hiển: Đây được cho là phương pháp tối ưu nhất trong tình trạng suy giãn tĩnh mạch hiển do phương pháp này ít đau hơn, thời gian hồi phục nhanh hơn so với phẫu thuật ngoại khoa khác.
  • Đối với suy tĩnh mạch xuyên, hiệu quả của phương pháp này còn khá tranh cãi.

Tuy nhiên phương pháp này chống chỉ định với trường hợp bệnh nhân có dị dạng động tĩnh mạch, bệnh nhân có tắc nghẽn tĩnh mạch sâu. Với những bệnh nhân không thể vận động phương pháp nội nhiệt không được khuyến cáo. Người bệnh có rối loạn đông máu hoặc đang điều trị chống đông là trường hợp chống chỉ định của thủ thuật này.  Bệnh nhân có sử dụng máy tạo nhịp tim không được dùng dạng sóng radio cao tần do nguy cơ làm loạn nhịp máy trợ tim.
Điều trị laser trên da: Phương pháp này dùng nhiệt của tia laser để làm mờ các tĩnh mạch nông trên da trong trường hợp giãn tĩnh mạch mạng nhện hoặc dạng lưới trên da.

Điều trị laser trên da
Điều trị laser trên da

Phẫu thuật điều trị giãn tĩnh mạch chi dưới

Các phẫu thuật can thiệp có chỉ định từ suy giãn tĩnh mạch C2 đến C6. Thường, bệnh nhân sẽ được chỉ định phẫu thuật ngoại khoa khi các phương pháp khác chống chỉ định hoặc không còn tạo ra đáp ứng trên bệnh nhân. Các kĩ thuật chủ yếu bảo gồm: Phẫu thuật stripping, phẫu thuật CHIVA (chirurgie vasculaire ambulatoire), phẫu thuật Muller (phlebectomy), Tạo lập van tĩnh mạch mới, Đặt nong và stent tĩnh mạch. Sau khi được thực hiện các phẫu thuật này, bệnh nhân sẽ được chỉ định tất hoặc băng ép áp lực đã đề cập phía trên để tránh tụ máu.

Phẫu thuật Stripping

Đối với bệnh nhân có suy tĩnh mạch hiển lớn hoặc suy tĩnh mạch nhỏ có triệu chứng có thể được chỉ định lấy bỏ quai tĩnh mạch hiển lớn và phẫu thuật stripping. Đây là những chỉ định đã được chứng minh là có hiệu quả với khuyến cáo ở mức độ cao đối với phẫu thuật stripping.
Phẫu thuật được hiểu đơn giản là can thiệp để lấy bỏ toàn bộ tĩnh mạch hiển bị suy (tĩnh mạch hiển lớn hoặc hiển nhỏ) ra khỏi chi dưới. Đồng thời kèm theo cắt bỏ quai tĩnh mạch hiển. Các tĩnh mạch xuyên bị suy có thể được thắt hoặc cắt bỏ đồng thời.

Phẫu thuật CHIVA

Trong kĩ thuật này, bệnh nhân sẽ được đánh số tĩnh mạch bị suy có dòng trào ngược theo bản đồ tĩnh mạch chi dưới (bằng siêu âm Doppler). Sau đó, vị trí tĩnh mạch gây ra trào ngược sẽ được thắt hoặc cắt bỏ. Số tĩnh mạch hiển sẽ được bảo tồn một cách tối đa.

Phẫu thuật Muller

Phẫu thuật Muller điều trị suy giãn tĩnh mạch chi dưới
Phẫu thuật Muller điều trị suy giãn tĩnh mạch chi dưới

Đây là kĩ thuật được bác sĩ Dr. Robert Mueller người Đức nghiên cứu và phát triển. Trong trường hợp các tĩnh mạch hiển đã được điều trị triệt để, phẫu thuật Muller sẽ được chỉ định khi bệnh nhân suy giãn các nhánh tĩnh mạch nông bàng hệ.
Những phẫu thuật ngoại khoa trên được cho là liệu pháp điều trị có thời gian tác dụng khá lâu. Tuy nhiên những phương pháp này có nguy cơ để lại một số biến chứng như: Tụ máu vùng Scarpa hoặc tụ máu dọc theo đường đi của tĩnh mạch được can thiệp. Sai sót trong quá trình phẫu thuật gây tổn thương thần kinh hiển có thể gây dị cảm chi dưới. Sau các phẫu thuật, nguy cơ huyết khối tĩnh mạch là khá cao, do đó, luôn cần các biện pháp dự phòng. Trong một số trường hợp, sau phẫu thuật, bệnh nhân vẫn có thể tái phát suy giãn tĩnh mạch.

Tạo lập van tĩnh mạch mới bằng kĩ thuật Maleti

Bác sĩ sẽ dùng dụng cụ để tách thành nội mạc của tĩnh mạch. Sau đó, van tĩnh mạch mới sẽ được gắn vào để thay thế cho van cũ bị suy. Đây là phương pháp được ứng dụng chủ yếu trong trường hợp suy giãn tĩnh mạch chi dưới thứ phát sau huyết khối.

Đặt ống nong hoặc stent

Phương pháp can thiệp nội tĩnh mạch (nong, đặt stent) được xem là phương pháp được lựa chọn hàng đầu trong điều trị hẹp tĩnh mạch chậu – đùi thứ phát do huyết khối tĩnh mạch sâu. Phương pháp chỉ nên được chỉ định trong những trường hợp suy giãn nặng với các triệu chứng trầm trọng nhận thấy được như phù, biến đổi màu da … khi mà các biện pháp khác không còn tác dụng.

Chi phí phẫu thuật

Đây là một vấn đề được khá nhiều người quan tâm. So với các điệu trị khác như dùng vớ nén, dùng thuốc, một lần điều trị bằng can thiệp sẽ có chi phí cao hơn. Tùy từng can thiệp khác nhau và cơ sở tiến hành phẫu thuật mà chi phí là khác nhau. Do vậy, rất khó để có thể đưa ra một khoảng chi phí cụ thể. Tuy nhiên, để ước tính, theo tổng kết chung của chi phí phẫu thuật của các cơ sở tuyến đầu, viện phí cho một can thiệp tĩnh mạch chân sẽ có giá từ khoảng 1000 đô la Mỹ, tương đương khoảng 20 đến 20 triệu VNĐ.

Chi phí phẫu thuật suy giãn tĩnh mạch chân
Chi phí phẫu thuật suy giãn tĩnh mạch chân

Theo dõi đáp ứng và điều trị các biến chứng khác của bệnh nhân

Đây là bước không thể bỏ qua trong điều trị suy giãn tĩnh mạch chi dưới do khả năng tái bệnh và các biến chứng kèm theo của bệnh nhân là khá cao. Theo dõi bệnh nhân thường xuyên giúp bác sĩ có thể điều chỉnh kịp thời phác đồ điều trị để đạt được hiệu quả tốt nhất.
Một số biến chứng phổ biến trên bệnh nhân suy giãn tĩnh mạch chi dưới như:

  • Loét do nguyên nhân tĩnh mạch: Điều trị để bệnh nhân hết loét và liền sẹo. Không như loét do virus hay vi khuẩn, muốn điều trị loét ở suy giãn tĩnh mạch cần làm các biện pháp cải thiện tuần hoàn: Chăm sóc tại chỗ, băng ép, ghép da…
  • Bệnh nhân bị bội nhiễm: Có thể do thuốc hoặc do hạn chế vận động. Sử dụng kháng sinh tại chỗ hoặc toàn thân. Có thể có dự phòng kháng sinh trong 1 số trường hợp nguy cơ bội nhiễm cao (Ví dụ như sau phẫu thuật)
  • Chàm hóa: Bôi ngoài da bằng thuốc mỡ corticoid.
  • Bệnh nhân có huyết khối tĩnh mạch nông: Điều trị bằng thuốc chống viêm, nghỉ ngơi tại giường, và sử dụng phương pháp áp lực bằng băng ép hoặc tất. Chỉ sử dụng thuốc điều trị huyết khối khi huyết khối ở vị trí quai tĩnh mạch hiển, hoặc điều trị như một biện pháp dự phòng nếu bệnh nhân phải nằm lâu (thường là sau phẫu thuật).

Tham khảo thêm: Suy giãn tĩnh mạch là bệnh gì? Nguyên nhân, Triệu chứng và Phòng ngừa

Điều trị giãn tĩnh mạch chân bằng đông y

Suy giãn tĩnh mạch dù với nguyên nhân là gì, đều có những tổn thương thực thể nhất định của tĩnh mạch hoặc của van tĩnh mạch. Do đó, phẫu thuật hoặc can thiệp trực tiếp được đánh giá là phương pháp tận gốc nhất. Tuy nhiên, đó sẽ là những lựa chọn cuối cùng. Như phân tích phần trên, nhóm dược chất có tác dụng tốt nhất trong trợ tĩnh mạch chính là dịch chiết tinh khiết flavonoid, có nhiều trong các loại thảo dược. Từ đó, mở ra những tiềm năng về phương pháp chữa suy giãn tĩnh mạch chi dưới bằng đông y, hay các thảo dược truyền thống.
Việc bổ sung thực phẩm có chứa flavonoid trong bữa ăn như: Rau củ xanh (bao gồm hành, ớt chuông, rau bina và bông cải xanh), trái cây như nho, anh đào, táo và quả việt quất, ca cao, tỏi là một phương pháp truyền thống dễ dàng áp dụng. Flavonoid cải thiện lưu thông máu, thông tuần hoàn. Các chất này cũng giúp giảm huyết áp trong động mạch và có thể làm thư giãn các mạch máu, tất cả đều có thể làm giảm chứng giãn tĩnh mạch.

Rau củ xanh bổ xung Flavonoid giúp điều trị suy giãn tĩnh mạch chân
Rau củ xanh bổ xung Flavonoid giúp điều trị suy giãn tĩnh mạch chân

Theo Viện Y tế hoàng gia Anh, chiết xuất hạt nho, Vitis vinifera, có thể giúp giảm sưng chân và các triệu chứng khác của suy tĩnh mạch mạn tính. Mặc dù hiện tại có bằng chứng lâm sàng hiện tại là khá hạn chế nhưng hiệu quả của nó vẫn mở ra một hướng điều trị lành tính.
Một nghiên cứu đánh giá từ năm 2006 cho thấy chiết xuất hạt dẻ ngựa, Aesculus hippocastanum L., có thể giúp giảm đau chân, giảm cảm giác nặng nề và hiện tượng ngứa ở những người bị suy tĩnh mạch mạn tính.
Một nghiên cứu khác đánh giá từ năm 2010 báo cáo rằng chiết xuất thông biển, Pinus maritima và chiết xuất của Butcher, Ruscus aculeatus, có thể làm giảm sưng chân, phù, và một số triệu chứng khác liên quan đến chứng giãn tĩnh mạch.
Các chiết xuất thảo dược kể trên đều đã được sản xuất thành cá thành phẩm khá tiện lợi để sử dụng. Bạn có thể tìm kiếm các thuốc biệt dược có thành phần kể trên. Trong trường hợp sử dụng trực tiếp thảo dược hoặc trực tiếp chiết suất hoặc tinh dầu bạn nên cẩn trọng để tránh việc sử dụng quá nhiều lượng dược chất trong cùng một lần.

Cách trị giãn tĩnh mạch chân tại nhà

Với tỉ lệ người mắc suy giãn tĩnh mạch khá cao trong dân số hiện tại, việc điều trị tại nhà khi có thể vừa làm giảm chi phí điều trị cho bản thân bệnh nhân, vừa giúp giảm gánh nặng y tế cho các cơ sở y tế. Có khá nhiều phương pháp đơn giản bạn có thể thực hiện hàng ngày để quản lí căn bệnh này.

Tập thể dục

Tập thể dục thường xuyên kích thích lưu thông máu tốt hơn ở chân, tuần hoàn tốt giúp hạn chế sự suy giãn và nguy cơ huyết khối tĩnh mạch. Ngoài ra tập thể dục còn tốt cho tim mạch, huyết áp, chuyển hóa nền của cơ thể. Do đó, tập thể dục có thể coi như một phương pháp ngăn ngừa và điều trị của rất nhiều bệnh. Tuy nhiên, với bệnh nhân suy giãn tĩnh mạch chi dưới, điều quan trọng là cần tập luyện một cách phù hợp, vừa sức. Việc tập quá nặng có thể làm trầm trọng hơn (như đẩy tạ, các môn dồn áp lực nhiều lên chân). Một số môn thể thao nên được tập luyện là: Bơi lội, đi bộ nhẹ nhàng, đạp xe và tập yoga. Duy trì luyện tập đều đặn là chìa khóa quan trọng giúp bạn đẩy lùi bệnh tật và nâng cao sức khỏe.

Chế độ ăn uống

Chế độ ăn uống phù hợp giúp hỗ trợ điều trị suy giãn tĩnh mạch chân
Chế độ ăn uống phù hợp giúp hỗ trợ điều trị suy giãn tĩnh mạch chân

Đây được cho là một yếu tố khá quan trọng trong quản lí bệnh suy giãn tĩnh mạch. Khi có một chế độ ăn khoa học và hợp lí, bệnh sẽ được kiểm soát rất tốt, thậm chí không cần sử dụng đến các biện pháp hỗ trợ.
Chế độ ăn mặn, hay ăn nhiều muối (hoặc natri) dễ khiến cơ thể giữ nước gây phù. Ngoài ra, giảm muối cũng tốt cho huyết áp của bạn. Các sản phẩm chứa kali có thể hạn chế việc giữ muối. Tuy nhiên, lưu ý, không nên bổ sung quá nhiều thực phẩm chứa kali do nguy cơ rối loạn nhịp tim. Một số thực phẩm giàu kali như: Hạnh nhân, một số cá: chẳng hạn như cá hồi và cá ngừ, các loại rau xanh (cải thìa, cải brusesls), các loại thịt đỏ.
Thực phẩm có chất xơ giúp ngăn ngừa táo bón. Việc hạn chế táo bón hạn chế căng thẳng giúp giảm tiến trình suy thoái của các van. Các thực phẩm có nhiều chất xơ nên được bổ sung trong thực đơn như: Các loại hạt, hạt và cây họ đậu, yến mạch, lúa mì và hạt lanh.
Theo các nghiên cứu, những người thừa cân (BMI>30) có nguy cơ bị giãn tĩnh mạch cao hơn, do đó, giảm cân nếu bạn thừa cân giúp làm giảm áp lực lên tĩnh mạch và làm giảm sưng và khó chịu. Hạn chế các thực phẩm chứa nhiều mỡ động vật để tránh các tác hại xấu lên tim và mạch.

Quần áo rộng rãi thoải mái

Mặc quần áo bó sát có thể tăng áp lực không đáng có lên mạch máu của bạn gây hạn chế lưu lượng máu. Tuần hoàn lưu thông tốt hơn khi mặc quần áo rộng, không bó, không làm giảm việc cung cấp máu cho phần dưới cơ thể.
Mang giày đế bằng thay vì giày cao gót cũng có thể giúp chữa chứng giãn tĩnh mạch ở chân.

Mang giày đế bằng thay vì giày cao gót giúp chữa giãn tĩnh mạch ở chân
Mang giày đế bằng thay vì giày cao gót giúp chữa giãn tĩnh mạch ở chân

Giữ chân nâng cao trong lúc nghỉ ngơi

Giữ cho chân nâng cao, lý tưởng ở cùng độ cao bằng hoặc cao hơn do với tim hoặc sẽ giúp cải thiện lưu thông do máu dễ dàng trở về tim hơn. Điều này làm giảm áp lực trong tĩnh mạch chân và trọng lực sẽ giúp máu chảy ngược trở lại tim. Bạn nên giữ cho chân ở vị trí được nâng cao đặc biệt khi bạn phải ngồi trong thời gian dài.

Massage

Mát xa nhẹ nhàng các khu vực bị ảnh hưởng có thể giúp giữ cho máu lưu thông tốt hơn qua các tĩnh mạch. Sử dụng các dầu massage nhẹ nhàng hoặc kem dưỡng ẩm để có hiệu quả tối ưu. Tuy nhiên, bạn cần rất lưu ý trong quá trình mát xa, điều tối quan trọng là tránh ấn trực tiếp lên tĩnh mạch, vì điều này có thể làm hỏng các mô thành mạch, gây xuất huyết do các tĩnh mạch đã suy yếu sẵn.

Tránh giữ nguyên tư thế trong một thời gian dài

Tránh ngồi trong thời gian dài. Nếu bạn phải ngồi trong thời gian dài để làm việc, hãy cố gắng đứng dậy và di chuyển xung quanh hoặc thay đổi vị trí thường xuyên để giữ cho máu được tuần hoàn thông suốt.
Tránh tư thế ngồi với hai chân bắt chéo, vì điều này có thể hạn chế hơn nữa lưu lượng máu đến chân và bàn chân, điều này có thể gây thêm vấn đề về tuần hoàn lưu thông.

Giãn tĩnh mạch chân có nên đi bộ không?

Giãn tĩnh mạch chân có nên đi bộ không?
Giãn tĩnh mạch chân có nên đi bộ không?

Theo cơ chế lưu thông đẩy máu từ tĩnh mạch chân về tim, phản lực từ chân đẩy máu lên là một trong 3 cơ chế quan trọng. Các chuyển động cơ bản, nhẹ nhàng như đi bộ là một tác động tốt trong điều trị suy giãn tĩnh mạch chân. Duy trì thói quen đi bộ nhẹ nhàng khoảng 30 phút mỗi ngày sẽ là một thói quen tốt giúp bạn hạn chế được tiến triển của bệnh và duy trì sức khoẻ.
Khi đi bộ, bạn nên lựa chọn những đôi giày hoặc dép mềm và nhẹ, không nên bê kèm hoặc đeo kèm các vật nặng. Đường đi nên là đường bằng.

Bị giãn tĩnh mạch chân có tập yoga được không?

Yoga là một bộ môn có nguồn gốc từ Ấn Độ rất nổi tiếng với những tác dụng tuyệt vời mà nó đem lại. Yoga với những bài tập kéo dãn các cơ, kết hợp với việc hít thở sâu và đều đặn giúp khí huyết được lưu thông. Tập Yoga là một liệu pháp rất tốt với bệnh nhân suy giãn tĩnh mạch vì tuy nó không điều trị được các triệu chứng nhưng Yoga có thể quản lí và kiểm soát chúng. Các động tác kéo giãn cơ thể giúp làm giảm sưng và đau ở chân do suy tĩnh mạch gây ra một cách đáng kể. Các tư thế Yoga nâng cao chân sẽ là những động tác có hiệu quả nhất.

Bệnh giãn tĩnh mạch chân khám ở đâu?

Trong các trường hợp chưa cần phải thực hiện các can thiệp, việc chẩn đoán và điều trị suy giãn tĩnh mạch chân không phải là quá khó. Đây là căn bệnh liên quan đến tuần hoàn và giải ohaaux tĩnh mạch, do đó bạn có thể tìm đến những bệnh viện chuyên hoặc có chuyên khoa về tim mạch.
Nếu ở khu vực Hà Nội, bạn có thể đến khám và điều trị tại Viện Tim Hà Nội, viện Tim mạch quốc gia, Viện Bạch Mai, Viện 108.
Ở thành phố Hồ Chí Minh, một số địa chỉ uy tín như: Bệnh viện Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Tim Thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh viện Chợ Rẫy.
Trên đây đều là những bệnh viện tuyến đầu có những chuyên gia đầu ngành về điều trị suy giãn tĩnh mạch và các vấn đề về tĩnh mạch.

Một số câu hỏi thường gặp về suy giãn tĩnh mạch chân

Giãn tĩnh mạch chân khi mang thai có nguy hiểm không?

Giãn tĩnh mạch chân khi mang thai có nguy hiểm không?
Giãn tĩnh mạch chân khi mang thai có nguy hiểm không?

Khi mang thai, đặc biệt là các tháng cuối, áp lực của thai nhi và sự tăng cân có thể là nguyên nhân gây cản trở tuần hoàn của chi dưới. Áp lực nén xuống này là nguyên nhân dẫn đến suy giãn tĩnh mạch ở phụ nữ mang thai. Do đó, có nhiều phụ nữ mang thai có thể xảy ra hiện tượng phù chân, nổi tĩnh mạch chân nhìn thấy được. Thường, đây là một tình trạng khá phổ biến và vô hại trong thai kì của bạn.
Tuy nhiên, trong giai đoạn mang thai, việc sử dụng thuốc hoặc các can thiệp để giảm triệu chứng của giãn tĩnh mạch chân sẽ trở nên hạn chế và cần rất thận trọng. Do đó, bạn nên chú trọng đến những phương pháp không dùng thuốc trong thai kì để có một thai kì khỏe mạnh và đảm bảo sức khỏe cho thai nhi.
Những biện pháp đơn giản như chịu khó đi lại, kê cao chân trong lúc ngủ, một số bài tập luyện nhẹ nhàng, yoga cho phụ nữ mang thai sẽ giúp cải thiện tình trạng suy giãn tĩnh mạch do mang thai của bạn.
Tuy nhiên, nếu tình trạng giãn tĩnh mạch trở nên trầm trọng hơn như cứng da, nóng đỏ đau, bạn nên tìm đến bác sĩ để có sự tiếp cận hợp lí.
Sau khi sinh, các triệu chứng này thường đỡ dần và hết hẳn. Một số người tiến triển thành suy giãn tĩnh mạch mạn.

Có nên sử dụng tất chống giãn tĩnh mạch chân không?

Đây là một phương pháp vật lí được chỉ định trong hầu hết các trường hợp suy giãn tĩnh mạch trong các giai đoạn của bệnh. Vớ tĩnh mạch hay băng cuốn áp lực là những biện pháp bổ trợ cho điều trị suy giãn tĩnh mạch rất hiệu quả. Thậm chí, trong những giai đoạn đầu của bệnh, vớ áp lực có thể được sử dụng như liệu pháp đơn độc quản lí bệnh suy giãn tĩnh mạch chân. Điều quan trọng là bạn cần xác định được tình trạng bệnh của mình để chọn độ nén của tất hợp lí. Đến khám bác sĩ để nhận được chẩn đoán chính xác và lời khuyên hợp lí nhất.

Tài liệu tham khảo

  1. Guidelines of the American venous forum, 2007
  2. Báo cáo của BS Nguyễn Vân Anh Viện Tim mạch – BV Bạch Mai trong Đại hội tim mạch toàn quốc lần thứ XVI (2018).
  3. Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị suy giãn tĩnh mạch của NICE 2013.

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây