Bài viết Tiêu chuẩn chăm sóc bệnh nhân ARDS: các cài đặt thông khí và các liệu pháp cứu hộ cho tình trạng thiếu oxy máu kháng trị được BS. Đặng Thanh Tuấn dịch từ bài viết gốc: The standard of care of patients with ARDS: ventilatory settings and rescue therapies for refractory hypoxemia
1. Tóm tắt
Mục đích: ARDS nặng thường có liên quan đến tình trạng thiếu oxy máu kháng trị, và phải xác định sớm và điều trị thiếu oxy máu. Quản lý ARDS nặng bằng các cài đặt thông khí, tư thế nằm sấp, kiểm soát nhiễm trùng và các biện pháp hỗ trợ là cần thiết để cải thiện sự sống còn.
Phương pháp và kết quả: Định nghĩa chính xác của thiếu oxy máu đe dọa tính mạng không được xác định. Các trị số lâm sàng điển hình là PaO 2 < 60mmHg và/hoặc SpO2
< 88% và/hoặc tỉ lệ PaO2/FIO2 < 100. Các cài đặt thông khí cơ học được khuyến cáo là: giới hạn thể tích khí lưu thông (6ml/kg trọng lượng cơ thể dự đoán), PEEP đủ cao (> 12 cmH2O), thủ thuật huy động trong những tình huống đặc biệt, và tần số hô hấp “cân bằng” (20-30 lần/phút). Các phương pháp tại giường dùng để hướng dẫn PEEP/huy động (ví dụ: áp lực xuyên phổi) vẫn chưa có. Tư thế nằm sấp [sớm (≤ 48 giờ sau khi bắt đầu ARDS nặng) và kéo dài (lặp lại 16 giờ) cải thiện sự sống còn. Quản lý và kiểm soát nhiễm trùng tiến bộ bao gồm chẩn đoán sớm các mẫu vi khuẩn, không điển hình, virut và nấm bệnh (cấy máu, dịch rửa phế quản phế nang), và các nguồn nhiễm trùng bằng CT scan, tiếp theo là sử dụng thuốc kháng sinh phổ rộng. Thuốc chẹn thần kinh cơ (Cisatracurium ≤ 48 giờ sau khi bắt đầu ARDS), cũng như một chiến lược an thần thích hợp (hướng dẫn theo bảng điểm) là một liệu pháp hỗ trợ quan trọng. Sự cân bằng dịch âm tính có liên quan đến chức năng phổi cải thiện và việc sử dụng lọc máu có thể được chỉ định cho các tình trạng cụ thể.
Kết luận: Một tiêu chuẩn chăm sóc đặc biệt là cần thiết để quản lý ARDS nặng với tình trạng thiếu oxy máu kháng trị.
2. Giảm oxy máu trong ARDS: định nghĩa, theo dõi, và cạm bẫy
Hội chứng suy hô hấp cấp tính (ARDS) được đặc trưng bởi suy giảm chức năng trao đổi khí phổi đe dọa tính mạng, dẫn đến tình trạng thiếu oxy máu, tăng CO2 máu, và nhiễm toan hô hấp và cần các biện pháp cứu cấp. Việc cung cấp oxy đến các mô là cần thiết, và tình trạng thiếu oxy trong mô sẽ gây ra các tác động có hại khác nhau bao gồm phản ứng mạch máu thay đổi, viêm, apoptosis tế bào và rối loạn chức năng hoặc suy cơ quan [1]. Thiếu oxy mô là kết quả của thiếu oxy máu, và thiếu oxy máu là kết quả của sự hỗ trợ không đầy đủ của hệ hô hấp và/hoặc hệ thống cung cấp oxy (cung lượng tim, mức hemoglobin [2]). Thật không may, không xác định được giới hạn chính xác và “giản đơn” đối với tình trạng thiếu oxy máu và mức độ “nguy hiểm” mà nguy cơ xuất hiện có thể khác nhau giữa các cơ quan và giữa bệnh nhân. Hơn nữa, không rõ liệu những bệnh nhân bị bệnh nặng có cùng một cơ chế bù trừ với thiếu oxy máu như là cơ thể con người “bình thường” hay không, và khởi phát nhanh, mức độ nặng và thời gian thiếu oxy máu là bao nhiêu để có thể quyết định sự khởi phát thiếu oxy mô.
Xác định lâm sàng của thiếu oxy máu thay đổi, nhưng các giá trị điển hình là:
- Áp lực riêng phần của oxy (PaO2) < 60 mmHg.
- Tỷ lệ PaO2 và FIO2 < 100.
- Độ bão hòa oxy máu động mạch (SaO 2) < 88%.
Trong những năm gần đây, một chiến lược giảm oxy máu cho phép (permissive hypoxemia) ở những bệnh nhân ARDS nặng đã được đề xuất nhằm giảm thiểu tác hại của nồng độ oxy cao bằng cách chấp nhận một SaO 2 thấp và tối ưu hóa cung lượng tim để duy trì sự cung cấp oxy đầy đủ [3]. Lưu ý rằng khái niệm “cổ điển” về sự phân phối/tiêu thụ oxy phụ thuộc vào nhauđang gây tranh cãi [4]. Một tổng quan Cochrane gần đây đã không xác định được bất kỳ nghiên cứu nào có liên quan về đánh giá tình trạng thiếu oxy máu so với mức oxy máu bình thường ở những bệnh nhân ARDS có thông khí [5]. Hơn nữa, trong phân tích hồi cứu các bệnh nhân ARDS, PaO2 thấp hơn trong quá trình thở máy (trung bình < 72 mmHg) có tỷ lệ suy giảm nhận thức về dài hạn và rối loạn tâm thần cao hơn so với PaO2 cao hơn (86 mmHg, p < 0,02) [6].
Thiếu oxy máu và thiếu oxy mô có thể được phát hiện bởi PaO 2, SaO2, lactate huyết thanh và độ bão hòa oxy tĩnh mạch trung ương (SvO 2), đó là các phép đo toàn phần và trị số lưu lượng/thể tích trung bình theo cân nặng phản ánh tình trạng thiếu oxy trong cơ thể vẫn chưa được biết. Trong thực tiễn lâm sàng, định nghĩa “thiếu oxy máu” thường dựa trên một hoặc nhiều giá trị toàn phần này, và hiện tại không có thông số nào cho việc đánh giá chính xác tình trạng thiếu oxy trong mô ở từng bệnh nhân. Vì sự ôxy hóa mô không thích hợp cũng như việc cho dùng oxy quá mức (với biểu hiện của các loại phản ứng oxy) có thể gây hại [7], sự cân bằng cẩn thận dựa trên việc kiểm soát chính xác lượng oxy hóa động mạch bao gồm cả việc chấp nhận ngưỡng “an toàn” có thể tránh tình trạng giảm oxy máu cũng như tổn thương liên quan đến tăng oxy máu. Nó vẫn được đánh giá trong các nghiên cứu tiếp theo liệu các công thức sinh học đã chọn có thể giúp xác định tình trạng thiếu oxy trong mô ở từng bệnh nhân.
Tóm lại, các thông số “đơn giản” và toàn phần (PaO2, SaO2, SvO2, lactate) là các đại diện không chính xác cho tình trạng giảm oxy máu ở bệnh nhân ARDS. Tuy nhiên, một phương pháp tiếp cận đặc hiệu cá nhân, theo cơ chế để theo dõi tình trạng thiếu oxy máu hiện nay không có. Do đó cần phải có một mục tiêu cho việc oxy hóa động mạch bảo tồn (PaO2 = 65-75 mmHg, SaO2 = 90-95%), nên được đưa vào chiến lược phòng ngừa suy giảm cơ quan nói chung.
3. Cài đặt máy thở 1: thể tích khí lưu thông/tần số thở
3.1 Thể tích khí lưu thông thấp trong ARDS thiếu oxy máu
Thông khí VT thấp (6 ml/kg PBW) làm giảm tử vong 28 ngày và tử vong trong bệnh viện [8], nhưng VT dựa trên PBW bỏ qua thể tích phổi thực sự có sẵn để thông khí. Thể tích áp dụng chỉ phân bố cho các khu vực có thông khí (aerated regions), và vùng không thông khí (non-aerated regions) càng lớn hơn, thì vùng còn thông khí càng bị quá căng (hyperinlation) (strain) nhiều hơn. Áp lực đẩy cho một VT nhất định có trách nhiệm mở các khu vực phổi bị xẹp cuối thì thở ra. Áp lực thấp sẽ không mở lại các khu vực này và tình trạng thiếu oxy máu sẽ xấu đi. Giải pháp là tăng PEEP nhằm thu được những lợi ích tiềm tàng của cách tiếp cận bảo vệ như vậy, đặc biệt là trong ARDS nặng. Điều này cũng sẽ làm giảm áp lực đẩy cần thiết [9, 10]. Nó sẽ cho phép cài đặt cá nhân hóa nhiều hơn dựa trên các phép đo sinh lý và các cân nhắc [11-13].
3.2 Phương thức kiểm soát thể tích hoặc áp lực
Cho dù thông khí kiểm soát áp lực (PCV) có thể làm giảm tổn thương phổi do thở máy (VALI) so với thông khí kiểm soát thể tích (VCV) là vấn đề tranh luận. Một phân tích gộp trong ba thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng [14] đã kết luận rằng PCV không tốt hơn VCV, với nguy cơ tương đối về tỷ lệ tử vong ở bệnh viện và tử vong do ICU đối với PCV so với VCV là 0,83 (KTC 95% 0.67-1.02, p = 0.08) và 0,84 (KTC 95% 0,71-0,99, p = 0,04), tương ứng. Một nghiên cứu có hệ thống khác bao gồm 34 nghiên cứu kết luận rằng kết cục “không hề bị ảnh hưởng bởi việc sử dụng một loại nhịp thở so với tất cả các bệnh nhân” [15]. Do lưu lượng, áp lực đẩy, và tần số xác định năng lượng (power), và yếu tố làm cho thông khí gây tổn thương phổi, có vẻ như không có phương thức thở mà năng lượng này được cung cấp (tức là kiểu lưu lượng) đóng một vai trò quan trọng. APRV dẫn đến việc huy động tiềm năng bằng cách tăng áp lực đường thở và cho phép thở tự nhiên, với một số lợi ích tiềm ẩn (giảm sự an thần, thời gian thở máy ngắn hơn và cải thiện hoạt động của tim). HFOV cho phép thể tích khí lưu thông rất nhỏ, để ngăn chặn volutrauma, với áp lực đường thở trung bình (tương đối cao). Mặc dù lợi ích lý thuyết của họ, bằng chứng lâm sàng của cả hai kỹ thuật vẫn chưa được chứng minh và gây tranh cãi đối với bệnh nhân ARDS [16].
3.3 Tần số thở
Tác động của tần số thở (RR) đối với sự xuất hiện của VALI hoặc kết cục trong ARDS chưa được nghiên cứu độc lập. Tổn thương phổi có thể liên quan đến tần suất xẹp và mở lặp đi lặp lại [17], nghĩa là tần suất phổi tiếp xúc với stress và strain nhất định. Mức độ tổn thương mô có thể phụ thuộc vào biên độ áp lực và ở mức độ thấp hơn về tần số mà nó được áp dụng [18, 19]. Tuy nhiên, tần số thở cao hơn có thể ngăn ngừa sự mất huy động (tái xẹp) ở thì thở ra bằng cách giảm thời gian thở ra và gây ra PEEP nội sinh [20]. Trong một mô hình động vật của VALI, RR cao hơn có liên quan đến viêm phổi ít hơn, nhưng tăng phù phổi [21]. Theo đó, RR cao có thể ảnh hưởng đến lượng PEEP ngoại sinh, và tình trạng hiện tại của phổi về huy động (mất huy động), compliance khu vực, và resistance.
3.4 Tỉ lệ thời gian hít vào:thở ra (inspiratory/expiratory ratio)
Gia tăng thời gian hít vào đã được đề xuất để cải thiện oxy hóa. Ảnh hưởng của tỉ lệ I:E cao trong bệnh nhân ARDS thiếu oxy máu có liên quan đến sự gia tăng PEEP nội sinh, cải thiện thông khí của các đơn vị có hằng số thời gian dài và huy động phế nang thứ phát làm tăng áp lực đường thở trung bình (MPAW) [22]. Các kết quả liên quan đến hiệu quả của các tỷ lệ khác nhau I:E là mâu thuẫn [22, 23]. Các tác động tích cực đã được báo cáođã được cho là rút ngắn thời gian thở ra, tăng M PAW và PEEPi [24]. Sử dụng PEEP bên ngoài có lẽ là cách tiếp cận sinh lý học hơn vì nó duy trì mức độ kiểm soát và hằng định. Hơn nữa, tác động của một PEEPi không ổn định đến “stress/strain × time product” đối với sinh lý bệnh của VALI, đòi hỏi sự thận trọng [25].
3.5 Phương pháp làm ẩm: heat and moisture exchangers/humidifier
Việc làm ấm và làm ẩm khí thở vào bằng máy làm ẩm bằng nhiệt (HH) hoặc bộ trao đổi nhiệt và độ ẩm (HME) sẽ bù đắp cho các cơ chế giữ ẩm/ấm khí thở của cơ thể bị nối tắt và ngăn ngừa các biến chứng liên quan [26]. HME được sử dụng rộng rãi vì giá thấp, việc xử dụng đơn giản, và không gây ngưng tụ nước trong bộ dây thở. Tuy nhiên, chúng làm tăng khoảng chết và sức cản đường thở, cũng như công thở trong quá trình thở có trợ giúp, với nguy cơ tăng CO2 máu [27]. Ở bệnh nhân ARDS, nên dùng HH, mà không nên dùng HME có thể giảm PaCO2 một cách an toàn mà không thay đổi cài đặt thông khí [28]. Trong 17 bệnh nhân bị tổn thương phổi cấp ALI/ARDS VT giảm đáng kể khi sử dụng HH [29]. Những phát hiện này đặt câu hỏi về việc sử dụng HME ở bệnh nhân ARDS, nơi mà mục tiêu chính là cung cấp thông khí bảo vệ phổi tối ưu.
4. Cài đặt máy thở 2: PEEP/huy động phế nang
Việc huy động phế nang, có được thông qua áp lực dương cuối thì thở ra (PEEP) và/hoặc thủ thuật huy động phổi (LRM) đã được sử dụng để cải thiện tình trạng thiếu oxy máu ở bệnh nhân ARDS kểtừ đầu những năm 1970, ngay sau khi mô tả lần đầu tiên của hội chứng [30]. Hiện tại, mục đích của việc huy động phế nang không chỉ để cải thiện việc oxy hóa mà còn ngăn ngừa VALI bằng cách giảm thiểu sự mở và xẹp của phế nang theo chu kỳ hô hấp (atelectrauma) [31]. Tuy nhiên, mặc dù vô số các nghiên cứu lâm sàng và ba nghiên cứu lâm sàng lớn, hiệu quả của việc huy động phế nang vẫn còn đang gây tranh cãi [32-35]. Một lý do “đơn giản” là các bác sĩ lâm sàng thiếu phương pháp để định lượng việc huy động phế nang và ảnh hưởng của nó đối với VILI tại giường. Do đó, các quyết định dựa trên các đại diện, ví dụ như oxy hóa động mạch, áp lực bình nguyên cuối thì hít vào hoặc áp lực đẩy. Chụp cắt lớp trở kháng điện (EIT), siêu âm phổi, và chỉ số căng thẳng (stress index) đã được đề xuất để theo dõi việc huy động phế nang, nhưng hiếm khi được sử dụng trong thực hành lâm sàng [11, 36].
Hiện tại, chỉ có protocol dựa trên bằng chứng để cài đặt PEEP là một trong những đề xuất bởi ARDS Network (ARDSNet) trong một nghiên cứu quan trọng [8]. Tuy nhiên trong nghiên cứu đó, kết hợp PEEP và FiO 2 giống nhau đối với nhóm kiểm soát và nhóm nghiên cứu và LRM không được thực hiện. Nói chung, protocol ARDSNet chỉ “dung nạp” sự xẹp phổi bằng cách áp dụng PEEP và FiO 2 tối thiểu để phù hợp với mục tiêu oxy hoá chấp nhận được (nhưng khá thấp) (giữa 55 và 80 mmHg). Tuy nhiên, hai vấn đề chính vẫn còn đang phải bàn cãi: ngăn ngừa các cơ chế chính của VILI (cân nhắc giữa xẹp/mở có chu kỳ và quá căng phế nang) [9], và tốt nhất là “cứu hộ” được chấp nhận nếu protocol ARDSNet thất bại (nghĩa là nếu mục tiêu oxy hóa không đạt được với bảng PEEP/FiO2 và/hoặc áp lực bình nguyên đạt giới hạn do protocol quy định). Các tác dụng phụ tổng thể và các biến chứng liên quan đến thông khí cơ học được tóm tắt trong bảng 1.
Một phân tích gộp trong ba nghiên cứu lâm sàng chính [37] đánh giá vấn đề đầu tiên và đề xuất rằng việc áp dụng LRMs và PEEP cao hơn những gì được gợi ý bởi protocol của ARDSNet có thể cải thiện việc thông khí phổi và kết quả lâm sàng.
Table 1: Tần suất của tác dụng phụ và biến chứng của thở máy trong ARDS
Tác dụng phụ/biến chứng | Tần suất | Vấn đề |
Tổn thương phổi do máy thở (VALI) | Không rõ | Tỉ lệ và cường độ phụ thuộc vào sự xâm lấn/thời gian thở máy |
Viêm phổi do thở máy (VAP) | 14 28 % | Vấn đề: Tỷ lệ phụ thuộc ào định nghĩa VAP; tỷ lệ mắc tăng cùng với thời gian và sự xâm lấn của thông khí cơ học |
Rối loạn chức năng thất phải tâm phế cấp | đến 50 % | Thường kết hợp với hypercapnia /acidosis nặng |
Tràn dịch màng phổi | đến 80 % | Thường gặp liên quan đến tình trạng quá tải dịch, giảm áp lực keo, rối loạn chức năng tim, và áp lực màng phổi bị thay đổi |
Barotrauma/tràn khí màng phổi | 6 12 % | Phụ thuộc vào sự xâm lấn (Pplat) của thông khí cơ học |
Tổn thương hệ thống cơ quan khác thông qua tác động chéo | Không biết chính xác | Phổi, não, và thận tác động nhau qua các con đường viêm |
An thần kéo dài và bất động | Không biết | Tỉ lệ và cường độ phụ thuộc vào chiến lược an thần, (cho tỉnh dậy sớm), và thử nghiệm thở tự nhiên |
Phản ứng tăng sinh sợi của nhu mô phổi | đến 50 % trong “Kỷ nguyên bảo vệ phổi” | Sự suy giảm chức năng phổi (dung tích sống, thể tích thở ra gắng sức) lên đến 5 năm sau khi xuất viện |
Vấn đề thứ hai là một thách thức lâm sàng lớn trong một nhóm nhỏ bệnh nhân. Phương pháp tiếp cận đầu tiên đối với tình trạng thiếu oxy máu nặng kéo dài nên là tư thế nằm sấp [38] và thuốc phong tỏa thần kinh cơ [39]. Nếu những phương pháp này không cải thiện được oxy hóa, bệnh nhân là ứng cử viên cho việc huy động phổi tối đa “cứu hộ”. Phương pháp tiếp cận mở phổi đơn giản, mặc dù thông minh, là phương pháp được đề xuất bởi nghiên cứu Express [33], không chỉ dành riêng cho các bệnh nhân “cứu hộ”. Nói một cách ngắn gọn, nó bao gồm PEEP tăng lên từng bậc đến áp lực bình nguyên cuối thì hít vào ở 30-32 cmH2O (35 cmH2O nếu khả năng đàn hồi ngực giảm), trong khi thông khí với thể tích khí lưu thông thấp (VT, tức 4-6 ml/kg PBW). LRM không bắt buộc trong protocol Express; tuy nhiên, ở những bệnh nhân “khó thông khí” thủ thuật này được khuyến cáo trước khi chuẩn độ PEEP.
Một cách tiếp cận quan trọng, mặc dù hiếm khi áp dụng trong thực hành lâm sàng, là tối ưu hóa áp lực xuyên phổi (P L). Thật vậy trong quá trình PEEP và LRM, áp lực đẩy của máy thở bao gồm hai thành phần: một để bơm phồng phổi (P L) và một để mở rộng thành ngực. Đồng thời đo việc áp lực mở đường thở và áp lực thực quản cho phép phân chia các tính chất cơ học của phổi và thành ngực. Theo đó PEEP và LRM có thể được điều chỉnh an toàn đến mục tiêu P L “tối ưu”. Những bằng chứng gần đây cho thấy điều này có thể cải thiện tình trạng thiếu oxy máu “kháng trị” [40]. Cách tiếp cận phổi tích cực nhất đã được Barbas và cộng sự đề xuất [41] và dựa trên bằng chứng sinh lý học rằng huy động phế nang là một hiện tượng nhiều thì hít vào (multi- inspiratory phenomenon) và “áp lực mở” tới hạn của các đơn vị phổi xẹp là cao hơn áp lực cần thiết để giữ cho chúng mở. Barbas et al. [41] đã đề xuấtđể chuẩn độ PEEP trên đường thở ra của đường cong áp lực – thể tích (để phù hợp với compliance tốt nhất hoặc oxy hóa tốt nhất) ngay sau một LRM “tối đa”. LRM thực hiện bằng tăng PEEP từng bậc lên đến 45 cmH 2O, trong khi thông khí cho bệnh nhân với áp lực đẩy 10-15 cmH2O.
Cách tiếp cận phổi mở có thể cải thiện đáng kể việc oxy hóa, đồng thời giảm thiểu VALI. Khả năng huy động phế nang trong cá nhân bệnh nhân thay đổi rất nhiều và rất khó tiên đoán [42]. Theo nguyên tắc chung, những bệnh nhân ARDS sớm, lan tỏa, là những người có thể huy động tốt, trong khi những bệnh nhân ARDS muộn (> 1 tuần) hoặc ARDS khu trú không phải là người có thể huy động [35, 43]. Ở các người khó huy động, phương pháp phổi mở có thể gây căng phế nang quá mức và do đó gây VALI [31]. Chỉ số căng thẳng – stress index (xác định được thông khí cơ học gây tổn thương từ hình dạng của đường cong áp lực và thể tích) có thể là một công cụ có giá trị để theo dõi căng phồng phổi quá mức do tiếp cận phổi mở [11]. Một tác dụng bất lợi tiềm tàng khác của phương pháp tiếp cận phổi mở là suy giảm huyết động do giảm tiền tải hoặc tăng hậu tải thất phải [44].
5. Tư thế
5.1 Chỉ định của tư thế nằm sấp
Thông khí tư thế nằm sấp là thông khí cơ học cho bệnh nhân nằm quay mặt xuống giường. Phương pháp này thường xuyên và đôi khi cải thiện rõ rệt oxy hóa ở bệnh nhân ARDS [45]. Là một phương pháp điều trị, thông khí tư thế năm sấp dễ dẫn đến sự oxy hóa tốt hơn đáng kể so với thông khí cơ học được áp dụng ở vị trí nằm ngửa ở bệnh nhân ARDS [46]. Tư thế nằm sấp được sử dụng như một chiến lược quan trọng trong tình trạng thiếu oxy đe doạ đến mạng sống để tránh các phản ứng phụ nặng hoặc tửvong do tình trạng thiếu oxy máu trầm trọng. Trong phân tích dữ liệu bệnh nhân của bốn RCTs lớn, tư thế nằm sấp có tỷ lệ sống sót tốt hơn đáng kể ở bệnh nhân ARDS với PaO2/FiO2 < 100 mmHg [47]. Tuy nhiên, trong một thử nghiệm gần đây cho thấy sự sống sót tốt hơn đáng kể ở nhóm tư thế nằm sấp so với vị trí nằm ngửa ở bệnh nhân ARDS ở mức độ trung bình và nặng, lợi ích của nằm sấp được thấy ở bất kỳ mức độ thiếu oxy máu nào tại thời điểm ngẫu nhiên và không tương quan đã được tìm thấy giữa mức độ đáp ứng oxy hóa của phiên đầu tiên và của bệnh nhân còn sống [49]. Do đó, tác dụng có lợi của nằm sấp có thể được giải thích bởi các yếu tố khác hơn là cải thiện oxy hóa. Trong số đó, việc phòng ngừa VALI [50, 51] có thể là một yếu tố góp phần lớn vào lợi ích của việc nằm sấp. Như vậy, nó nên được áp dụng như là điều trị đầu tiên cho bất kỳ bệnh nhân ARDS vừa hoặc nặng.
5.2 Thời điểm và thời gian kéo dài
Nên nhấn mạnh rằng tác động của nằm sấp đối với phòng chống VILI khác với hiệu quả của việc oxy hóa. Từ đó trở đi, nằm sấp nên được sử dụng sớm nhất có thể sau khi xác định ARDS giảm oxy máu để làm cho phổi đồng nhất hơn và giảm stress và strain lên toàn bộ phổi trong thông khí cơ học. Tuy nhiên, trong thử nghiệm Proseva, bệnh nhân được ghi danh tham gia sau giai đoạn ổn định 12 đến 24 giờ được sử dụng để xác nhận ARDS. Có khả năng chiến lược này đã dẫn đến việc lựa chọn bệnh nhân với khả năng huy động nhiều hơn và không đồng nhất hơn [53], điều này có lợi cho tư thế nằm sấp. Tuy nhiên, nhóm đối chứng không bị mất cân bằng vì tỷ lệ tử vong của nó cũng chính xác như trong một thử nghiệm khác trên những bệnh nhân tương tự [54].
Các thử nghiệm ban đầu được dùng tư thế nằm sấp trong các phiên kéo dài 7-8 giờ [55, 56]. Nó cho thấy rằng sử dụng lâu hơn, phiên kéo dài hơn 12 giờ là khả thi [57, 58]. Trong thử nghiệm Proseva, thời gian trung bình của phiên là 17 giờ và trung bình 4 ngày điều trị bằng tư thế nằm sấp. Trong thử nghiệm PSII [57], các giá trị này lần lượt là 18 giờ và 8 ngày. Tiêu chuẩn để ngừng tư thế nằm sấp được xác định trong thử nghiệm Proseva như là một sự cải thiện oxy hóa cho trong 4 giờ cuối ở vị trí nằm ngửa (PaO2/FIO2 > 150 mm Hg với PEEP < 10 cm H2O và FiO2 < 0,6). Trong thử nghiệm PSII, tư thế nằm sấp chỉ được ngưng lại khi suy hô hấp cấp đã hồi phục (PaO2/FIO2 ở nằm sấp tương tự như ở nằm ngữa). Hai chiến lược này cho kết quả liều tư thế nằm sấp khác nhau, tương ứng là 73 và 50% thời gian của ngày.
5.3 Xử trí nguy cơ/an toàn bệnh nhân
Điều thú vị cần lưu ý là ở nhiều trung tâm đã sử dụng tư thế nằm sấp trong nhiều năm, thủ thuật đơn giản và được thực hiện thường xuyên bởi 3-4 người chăm sóc. Ở các trung tâm khác không thường xuyên cho bệnh nhân nằm sấp, thủ thuật được mô tả là phức tạp, rườm rà và nguy hiểm. Cần nhấn mạnh rằng thủ thuật thực sự cần một chương trình thực hiện cụ thể trong ICU và có thể là, tác động về thể tích là vấn đề quan trọng. Trong phân tích gộp cuối cùng của các thử nghiệm trên tư thế nằm sấp và vị trí nằm ngửa [58, 59], vết loét áp lực và tắc nghẽn khí quản vẫn thường gặp hơn đáng kể khi tư thế nằm sấp. Cũng cần nhấn mạnh rằng không có thử nghiệm nào cho thấy những ảnh hưởng có hại của tư thế nằm sấp như một nhóm.
5.4 Các chống chỉ định
Chống chỉ định đặc biệt đối với nằm sấp đã được xác định trong các thử nghiệm. Chống chỉ định đơn tuyệt đối duy nhất là gãy cột sống không ổn định. Tất cả các chống chỉ định khác (Bảng 2) đều tương đối và sự cân bằng giữa lợi ích và nguy cơ nên được khuyến khích. Cần lưu ý từ Bảng 2 rằng bụng cấp tính không phải là chống chỉ định đối với tư thế nằm sấp.
Bảng 2: Các chống chỉ định của tư thế nằm sấp trong các nghiên cứu
Gattinoni [55] | Guérin [48 54] | Mancebo [56] | Taccone [57] |
Phù não hoặc tăng áp lực nội sọ | ICP > 30 mmHg hoặc CPP < 60 mmHg Ho ra máu nặng cần can thiệp thủ thuật hoặc phẫu thuật Phẫu thuật khí quản hoặc xương ức trong vòng 15 ngày ngoại trừ đường thở đã được tiếp cận Chấn thương mặt nghiêm trọng hoặc phẫu thuật mặt trong 15 ngày trước Huyết khối tĩnh mạch sâu được điều trị ít hơn 2 ngày Máy tạo nhịp tim được đặt trong 2 ngày qua | Chấn thương sọ não hoặc nghi ngờ tăng ALNS | Tăng ALNS |
Gãy cột sống | Gãy không ổn định cột sống, ương đùi, xương chậu | Gãy ương chậu và/hoặc cột sống | Gãy ương chậu và/hoặc cột sống |
Bất ổn huyết động học | MAP < 65 mmHg Thai kỳ Đặt ống dẫn lưu ngực với rò khí |
6. Xử trí nhiễm khuẩn tiến bộ trong ARDS sớm
Trong giai đoạn đầu của ARDS, vào thời điểm nhập viện vào trung tâm ARDS, chụp cắt lớp (CT) phổi và toàn thân có thể được thực hiện đặc biệt ở sự kết hợp của nhiễm trùng huyết và ARDS để chẩn đoán (a) ổ nhiễm trùng là nguyên nhân chính của ARDS; (b) các biến chứng điển hình của ARDS; (c) rối loạn đồng thời cần can thiệp điều trị; và (d) các yếu tố nguy cơ cho việc hỗ trợ phổi ngoài cơ thể. CT được thực hiện để phát hiện một số tác nhân gây bệnh nhiễm trùng (hình ảnh thâm nhiễm phổi, hình ảnh kính mờ, tràn dịch màng phổi, tràn mủ màng phổi, áp xe phổi, hạch lympho, áp xe não, thuyên tắc huyết khối não, áp xe hoặc nhiễm trùng trong ổ bụng). Siêu âm tim thực quản rất hữu ích để loại trừ viêm nội tâm mạc và tràn dịch màng ngoài tim vàđánh giá chức năng tâm thất trái và phải. Nội soi mềm khí phế quản được sử dụng như là một thủ thuật chẩn đoán/điều trị những bệnh lý có thể gây thiếu oxy máu và tăng CO2 máu, và tình trạng thiếu oxy máu trầm trọng (PaO2/FiO2 <100) có thể được coi là chống chỉ định rửa phế quản phế nang (BAL, bronchoalveolar lavage). Lấy mẫu bằng bàn chải có bảo vệ (PSB, protected specimen brush) hiếm khi được sử dụng, vì nó tốn kém và dùng một lần.
Các xét nghiệm chẩn đoán nhiễm trùng
Các nguyên nhân chính của ARDS là nhiễm trùng. Nuôi cấy máu (Cấy máu: 2 x 2 cặp, ≥ 30 ml thể tích máu, điều kiện vô trùng, trước khi điều trị kháng sinh) là những chẩn đoán lâm sàng thiết yếu. Một chiến lược kháng sinh cụ thể dựa trên kết quả cấy hiệu quả hơn so với điều trị phổ rộng bằng kinh nghiệm [60]. Các kỹ thuật mới (polymerase chain reaction [PCR] and deoxyribonucleic acid [DNA] ampliication, microarray and/or matrix-assisted) rút ngắn thời gian xét nghiệm xuống còn dưới 8 giờ [61, 62].
Lấy dịch hút phế quản bằng cách sử dụng BAL định lượng (100-120 ml 0,9% NaCl) hoặc mini-BAL không nội soi phế quản (20-40 ml 0,9% NaCl), đặc biệt là ở các tình huống (thiếu oxy) BAL dùng qua nội soi phế quản có thể là quá xâm lấn [63]. Trị số cut-off đối với một số lượng đáng kể các đơn vị hình thành thuộc địa để phân biệt giữa tình trạng xâm chiếm và nhiễm khuẩn phụ thuộc vào loại xét nghiệm chẩn đoán: dịch tiết khí phế quản 105 CFU/ml; BAL 104 CFU/ml; và PSB 103 CFU/ml [64].
Việc nhuộm Gram vẫn đượ