Tadalafil là thuốc điều trị rối loạn cương dương có tên biệt dược là Cialis. Thuốc có cơ chế tác dụng tương tự với Viagra và Levitra. Ngoài ra thuốc Tadalafil còn được các bác sĩ chỉ định điều trị trong các trường hợp sung huyết động mạch phổi.
Bài viết này Heal Central xin chia sẻ tới các bạn thông tin chi tiết về hoạt chất Tadalafil.
Lịch sử nghiên cứu và phát triển của Tadalafil
Trong hơn 2 thập kỷ vừa qua, việc điều trị rối loạn cương dương (Erectile Dysfunction – ED) đã được cách mạng hóa bởi sự phát triển của các thuốc ức chế phosphodiesterase type 5 (PDE-5), bao gồm sildenafil, tadalafil, vardenafil và avanafil. Trong đó tadalafil là một thuốc rất đặc biệt. Điểm độc đáo nhất là thời gian bán hủy của nó kéo dài, lên tới 17.5 giờ, cho phép nó có cửa sổ điều trị dài hơn với liều yêu cầu và nồng độ trong huyết tương ở trạng thái cân bằng đạt hiệu quả với liều dùng 1 lần mỗi ngày. Các thử nghiệm lâm sàng đã chứng minh tính an toàn và hiệu lực của nó với cả chiến lược dùng thuốc cho tất cả các mức độ nghiêm trọng và nguyên nhân của ED, bao gồm cả ED khó điều trị.
Attempts at determining the neurotransmitter or neurotransmitters involved in creating an erection may some day lead to successful nonhormonal medical therapy [for erectile dysfunction] (Krane 1986, p. 731).
— Robert J Krane, MD, Campbell’s Urology, Fifth Edition
3 thập kỷ qua đã chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ của hiểu biết về sinh lý sự cương cứng, sinh lý bệnh của ED và các lựa chọn điều trị. Như trích dẫn ở trên từ phiên bản thứ năm của Campbell’s Urology tiết lộ, cách đây không lâu chỉ có rất ít người hiểu về sinh lý sự cương cứng, và điều trị đầy đủ cho ED vẫn chỉ là “một ngày nào đó”. Trước khi bước sang thế kỷ XXI, các lựa chọn điều trị dược lý cho ED đều phức tạp và xâm lấn, chỉ giới hạn ở tiêm trong thể hang hoặc pellet trong niệu đạo. Mọi thứ đã thay đổi khi thuốc ức chế PDE-5 đường uống trở nên có sẵn, cách mạng hóa hoàn toàn việc điều trị ED ở tất cả các mức độ nghiêm trọng và nguyên nhân. Pfizer đã giới thiệu thuốc ức chế PDE-5 đầu tiên là sildenafil (Viagra, Pfizer, New York, NY, USA) vào tháng 3 năm 1998, và trong 10 năm sau đó, các thuốc ức chế PDE-5 khác lần lượt ra đời, cùng với sự hiểu biết và nhận thức của công chúng về ED ngày càng được nâng cao, cũng như điều trị ED ngày càng đơn giản và hiệu quả hơn. ED đã không còn là một trong những bệnh khó chịu và khó chữa nhất nữa.
Việc bổ sung thêm 2 thuốc ức chế PDE-5 vào thị trường năm 2003 đã mở rộng các lựa chọn điều trị ED và các thuốc ức chế PDE-5 được coi là phương pháp điều trị đầu tay an toàn và hiệu quả cho ED. Với sự phát triển của các thuốc ức chế PDE-5 mới, sự chú ý được tập trung vào việc tăng hiệu lực cũng như thời gian tác dụng. Tadalafil (Cialis, Eli Lilly and Company, Indianapolis, IN, USA), tương tự như sildenafil và vardenafil (Levitra, Bayer AG, Đức) về cơ chế tác dụng, nhưng khác nhau về thời gian tác dụng. Vào tháng 1 năm 2008, Eli Lilly đã công bố sự đổi mới mới nhất trong điều trị ED, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã phê duyệt tadalafil 1 lần mỗi ngày cho điều trị ED.
Công ty nghiên cứu thuốc ICOS Corporation có trụ sở tại Bothell, Washington được thành lập năm 1990, và nó đã bắt đầu thử nghiệm trên tim mạch đầu tiên của thuốc ức chế PDE-5 có tên là IC351 vào năm 1993. Trong khi đó, sildenafil citrate (sildenafil) đã được phát hiện giúp cải thiện chức năng cương dương, như là một tác dụng phụ trong một thử nghiệm hiệu lực của nó trong điều trị đau thắt ngực vào năm 1994. IC351 được cấp bằng sáng chế vào năm đó và các thử nghiệm lâm sàng pha I bắt đầu vào năm 1995. 2 năm sau, các thử nghiệm lâm sàng pha II bắt đầu trên bệnh nhân ED.
Cùng năm mà FDA chấp thuận sildenafil là thuốc ức chế PDE-5 đầu tiên để điều trị ED, Eli Lilly and Company đã gia nhập vào ICOS Corporation để thành lập Lilly ICOS LLC vào năm 1998 để mở rộng thị trường của thuốc ức chế PDE-5 mới nhất. Tadalafil được chính thức ra đời vào năm 2000 dưới tên thương mại Cialis.
Vào tháng 5 năm 2002, các báo cáo đầu tiên về hiệu lực và thời gian tác dụng của tadalafil với ED đã được trình bày tại Hội nghị thường niên lần thứ 97 của Hiệp hội Tiết niệu Hoa Kỳ (AUA) tại Orlando, Florida, Hoa Kỳ. Brock và các cộng sự đã trình bày dữ liệu ban đầu của họ hỗ trợ hiệu lực và tính sự an toàn của tadalafil, và Porst và các đồng nghiệp đã trình bày rằng tadalafil có hiệu quả trong tối đa 36 giờ. Dữ liệu của Brock đã được công bố vào cuối năm đó trong một phân tích tổng hợp mang tính bước ngoặt của 5 thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên về tadalafil, cuối cùng đã dẫn đến sự chấp thuận của thuốc. Tadalafil đã được phê duyệt để sử dụng ở châu Âu vào cuối năm 2002, và vào ngày 21 tháng 11 năm 2003, tadalafil đã được FDA chấp thuận cho sử dụng tại Hoa Kỳ.
Cấu trúc phân tử của tadalafil khác với cấu trúc tương tự của sildenafil và vardenafil. Cả ba đều có hệ thống đôi dị vòng chứa N, với vòng trung tâm có cấu trúc tương tự cGMP (GMP vòng), cho phép thuốc liên kết cạnh tranh với PDE-5 tại vị trí xúc tác (Francis và các cộng sự, 2001). Tadalafil khác ở chỗ nó là thuốc ức chế PDE-5 type β-carboline với vòng piperazinedione được hình thành từ sự điều chỉnh vòng hydantoin của sildenafil.
Tham khảo thêm:
Thuốc Sildenafil: Tác dụng, liều dùng, lưu ý tác dụng phụ
Dược lực học
Sinh lý sự cương cứng và vai trò của PDE-5
Sự cương cứng dương vật là sự biến đổi mô cương cứng và mạch máu từ trạng thái mềm nhũn do tưới máu tối thiểu sang trạng thái cương cứng do ứ máu. Nó được trung gian bởi sự nối tiếp nhiều mặt của các thành phần thần kinh và mạch máu, kết hợp với các yếu tố tâm lý và hormone. Thông qua các con đường thần kinh phức tạp bao gồm các dây thần kinh hướng tâm cảm giác soma (cơ quan sinh dục ngoài) và các dây thần kinh tự trị (thể hang), cũng như các cấu trúc trên gai bao gồm vùng trước thị trung gian và nhân cận não thất của vùng dưới đồi, hưng phấn tình dục kích thích giải phóng các chất dẫn truyền thần kinh khởi đầu sự cương cứng.
Chất dẫn truyền thần kinh trung gian cương dương chính là nitric oxide (NO), một chất trung gian thể khí, tồn tại trong thời gian ngắn. NO được tổng hợp theo kiểu non-adrenergic, non-cholinergic nhờ nitric oxide synthase neuron (nNOS) trong các dây thần kinh thể hang để khởi đầu sự cương cứng và nhờ nitric oxide synthase nội mô (eNOS) trong nội mô để duy trì sự cương cứng trong suốt kích thích tình dục. NO khuếch tán thụ động qua màng tế bào và hoạt hóa guanylyl cyclase hòa tan (sGC) khi vào tế bào chất cơ trơn, do đó làm tăng sản xuất guanosine monophosphate vòng (cGMP) bằng cách biến đổi nó từ guanosine triphosphate (GTP) (Lincoln và Cornwell, 1991). Nồng độ cGMP tăng hoạt hóa protein kinase G, còn được gọi là kinase phụ thuộc cGMP thông qua quá trình phosphoryl hóa các kênh ion, mở các kênh kali và ức chế các kênh calci. Sự giảm nồng độ calci chất nền làm giãn cơ trơn (Dean và Lue, 2005).
Sự thư giãn cơ trơn mạch máu đồng thời làm giãn các tiểu động mạch và các dải cơ trơn mao mạch hình sin trong mô cương cứng để tăng lưu lượng máu đến dương vật. Sau đó, sự nén các tiểu tĩnh mạch dưới vỏ chống lại lớp vỏ trắng bít kín dòng máu tĩnh mạch thoát ra. Trong giai đoạn cuối cùng của sự cương cứng, sự co bóp mạnh mẽ của các cơ ngồi-hang làm thể hang dương vật đầy máu, điều này làm cho dương vật thậm chí còn trở nên cứng hơn nữa. Dòng máu động mạch vào và dòng máu tĩnh mạch ra tạm thời bị tắc nghẽn trong giai đoạn này, và áp lực trong thể hang có thể đạt đến hàng trăm mmHg (Lue, 2000).
Sự giảm cương cứng là kết quả từ tín hiệu giao cảm với xuất tinh, cũng như ở cấp độ phân tử với sự ngừng giải phóng NO từ nội mô và phá hủy cGMP và các chất truyền tin thứ cấp khác bởi các PDEs khác nhau (Lue, 2000). PDE là một loại enzyme đã được phát hiện 50 năm trước có tác dụng ngăn chặn chất truyền tin thứ hai adenosine 3’,5’-monophosphate vòng (cAMP) trên mô hình động vật (Sutherland và Rall, 1958). Siêu họ PDE bao gồm 11 họ, từ PDE-1 đến PDE-11, trên 21 gen duy nhất (Lin và các cộng sự, 2003). Chúng được phân bố trên khắp các mô khác nhau, chủ yếu ở các cơ trơn mạch máu, nội tạng và phổi, chúng điều chỉnh các chức năng sinh lý trong nhiều hệ thống cơ quan (Carson và Lue, 2005). Trong dương vật, PDE hoạt động để phá vỡ cGMP. Mặc dù người ta quan sát thấy rằng mọi họ của PDE, ngoại trừ PDE-6, đã được tìm thấy trong thể hang, PDE-5 là họ PDE phong phú nhất trong dương vật (Carson, 2007). Bằng cách ức chế sự phân hủy của cGMP, các thuốc ức chế PDE-5 làm tăng chức năng sinh học của cGMP, điều này vừa tạo điều kiện vừa tăng cường sự thư giãn cơ trơn cương cứng qua trung gian NO với kích thích tình dục.
Caffeine và theophylline là 2 trong số những loại thuốc đầu tiên được tìm thấy có tác dụng ức chế enzyme PDE từ nhiều thập kỷ trước (Butcher và Sutherland, 1962). Trong 40 năm qua, các thuốc ức chế một số họ PDE đã được phát triển để điều trị một số bệnh. Chúng bao gồm các thuốc ức chế PDE-3 milrinone và amrinone được phát triển vào những năm 1980 cho bệnh suy tim, 1 thuốc ức chế PDE-4 cilostazol được phát triển cho đau cách hồi và thuốc kháng tiểu cầu dipyridamole ức chế PDE-8, PDE9 và PDE5 (Carson và Lue, 2005). Papaverine là thuốc ức chế PDE đầu tiên được sử dụng trong điều trị ED, và nó vẫn được sử dụng trong thực hành hiện nay. Được sử dụng dưới dạng trong thể hang, papaverine là thuốc ức chế không chọn lọc PDE-3 và các dạng đồng phân của nó (Carson, 2007).
Ban đầu được nghiên cứu như một phương pháp điều trị đau thắt ngực, thuốc ức chế PDE-5 đường uống đầu tiên sildenafil, được phát hiện một cách tình cờ khi nó gây ra sự cương cứng ở những người tham gia nghiên cứu. Nó đã được tiếp thị trên thị trường sau đó vào năm 1998, trở thành phương pháp điều trị đường uống đầu tiên cho ED, và năm 2003, có thêm 2 thuốc ức chế PDE-5 nữa được đưa ra trên thị trường, đó là vardenafil và tadalafil.
Tham khảo thêm: Thuốc ức chế phosphodiesterase-5(PDE-5): Tác dụng, chỉ định, lưu ý tác dụng phụ
Cơ chế tác dụng
Tadalafil ức chế chọn lọc PDE-5, làm tăng tích lũy cGMP trong tế bào, do đó kéo dài thời gian thư giãn cơ trơn mạch máu và thể hang dương vật, làm máu vào dương vật nhiều hơn và sự cương cứng kéo dài lâu hơn.
Chọn lọc PDE
Tadalafil chọn lọc trên PDE-5 hơn tối thiểu 9000 lần so với hầu hết các họ PDEs khác, trừ PDE-11. PDE-11 được tìm thấy trong tinh hoàn và tuyến tiền liệt. Tuy nhiên, mặc dù tadalafil ức chế một phần PDE-11 ở liều điều trị, người ta vẫn chưa hiểu được đầy đủ ý nghĩa lâm sàng của nó. Một nghiên cứu của Hellstrom và các đồng nghiệp đã kết luận rằng tadalafil không có tác động có hại nào đối với sự sinh tinh trùng hoặc chức năng tinh hoàn.
Enzyme PDE chịu trách nhiệm trong dẫn truyền ánh sáng ở võng mạc là PDE-6, bị ức chế ở một mức độ nào đó bởi sildenafil và vardenafil, nhưng tadalafil thì không. Sự ức chế PDE-6 giải thích tác dụng phụ về chứng nhìn xanh (thấy mọi vật đều màu xanh) mà một số bệnh nhân sử dụng hai loại thuốc này gặp phải, vì sự ức chế PDE-6 ở võng mạc gây ra sự suy giảm khả năng phân biệt màu xanh dương – xanh lá cây. Chứng nhìn xanh được báo cáo ở 11% nam giới dùng sildenafil 100 mg. So với sildenafil và vardenafil, tadalafil ít ức chế hơn với PDE-6 và nó ức chế PDE-5 mạnh hơn 700 lần so với PDE-6 (ICOS 2008). Vì lý do này, tadalafil gây ra ít hơn 0.1% bất thường về thị lực.
Thử nghiệm lâm sàng
Thử nghiệm về tác dụng không mong muốn của tadalafil
Một nghiên cứu lớn trên 2102 nam giới từ 11 thử nghiệm đa trung tâm, ngẫu nhiên, mù đôi, đối chứng giả dược khác nhau đã báo cáo tadalafil được dung nạp tốt. 51% nam giới sử dụng tadalafil 20 mg gặp ít nhất một biến cố bất lợi (AE), nhưng chỉ có 3.2% dừng điều trị. Các AEs phổ biến nhất được báo cáo với liều 20 mg là đau đầu (15%), khó tiêu (8%) và đau lưng (5%) (Bảng 1) (Carson và các cộng sự, 2004a). Hầu hết các AEs là kết quả của sự giãn mạch các mạch máu khác ngoài dương vật.
Biến an toàn | Giả dược (n = 638) | Tadalafil 10 mg (n = 321) | Tadalafil 20 mg (n = 1143) |
Các bệnh nhân gặp ít nhất 1 AE | 247 (39%) | 185 (58%) | 577 (51%) |
Ngừng điều trị do AE | 8 (1.3%) | 5 (1.6%) | 36 (3.2%) |
Các biến cố bất lợi hay gặp nhất trong điều trị | |||
Đau đầu | 30 (5%) | 38 (12%) | 173 (15%) |
Khó tiêu | 7 (1%) | 23 (7%) | 90 (8%) |
Đau lưng | 15 (2%) | 20 (6%) | 60 (5%) |
Viêm mũi họng | 24 (4%) | 26 (8%) | 23 (2%) |
Đau cơ | 6 (1%) | 16 (5%) | 33 (3%) |
Đỏ bừng | 8 (1%) | 10 (3%) | 39 (3%) |
Sung huyết mũi | 4 (1%) | 11 (3%) | 28 (2%) |
Đau chi | 5 (1%) | 10 (3%) | 31 (3%) |
Bảng 1. Các AEs phổ biến nhất khi điều trị bằng tadalafil.
Mặc dù thường được hỏi bởi bệnh nhân, cương đau dương vật hiếm khi liên quan đến thuốc ức chế PDE-5. Một số báo cáo case đã tìm thấy một mối liên hệ khác thường giữa sildenafil và cương đau, chỉ có 1 báo cáo case duy nhất tồn tại trong tài liệu liên quan đến tadalafil với priapism (King và các cộng sự, 2005). Các thuốc ức chế PDE-5 bao gồm tadalafil thực sự có thể đem lại một số lợi ích trong việc ngăn ngừa cơn cương dương từng đợt tái phát. Có 4 nam giới mắc cơn cương dương từng đợt được sử dụng thuốc ức chế PDE-5 hàng ngày, 1 case trong đó sử dụng tadalafil, và cả 4 người này đều giảm tái phát cương dương từng đợt (Burnett và các cộng sự, 2006).
Thử nghiệm về hiệu lực của tadalafil trên quần thể mắc ED chung
Nghiên cứu được tham khảo thường xuyên nhất hỗ trợ hiệu quả của tadalafil là phân tích tổng hợp 5 thử nghiệm ngẫu nhiên, mù đôi, đối chứng giả dược, đa trung tâm pha III từ 1112 nam giới tại 74 trung tâm trên toàn thế giới (Brock và các cộng sự, 2002a). Độ tuổi trung bình là 59, và nguyên nhân của ED là 61% hữu cơ, 9% tâm lý và 31% hỗn hợp. Mức độ nghiêm trọng của ED ban đầu là nhẹ ở 41%, vừa phải ở 23% và nặng ở 36% bệnh nhân. Các bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên dùng giả dược hoặc tadalafil với liều từ 2.5 mg đến 20 mg và được hướng dẫn tự sử dụng 1 liều trước khi bắt đầu giao hợp tối đa 1 lần mỗi ngày. Điểm số IIEF-EF (IIEF: Điểm số quốc tế về chức năng cương dương; IIEF-EF: Miền chức năng cương cương của IIEF), SEP (Hồ sơ gặp gỡ tình dục) và GAQ (Câu hỏi đánh giá toàn cầu) được đánh giá lúc ban đầu và sau 12 tuần (Brock và các cộng sự, 2002a).
Kết quả phân tích tổng hợp đã cho thấy tất cả các liều tadalafil đều có kết quả hiệu lực tăng cường (Brock và các cộng sự, 2002a). IIEF-EF khi kết thúc điều trị tăng 6.5 ở nam giới nhận liều tadalafil 10 mg và 7.9 với liều 20 mg, so với 0.6 ở nam giới dùng giả dược (P < 0.001). Nỗ lực giao hợp thành công đã tăng ở 34% nam giới với liều 10 mg và 39% với liều 20 mg so với cải thiện 6% ở nhóm dùng giả dược khi các câu trả lời SEP-Q3 được so sánh sau 12 tuần (P < 0.001). Tadalafil vẫn có hiệu quả đến 36 giờ, vì hơn 70% nỗ lực đã thành công từ 30 phút đến 36 giờ sau khi dùng thuốc. Trên GAQ, 81% nam giới báo cáo cương cứng tổng thể được cải thiện với tadalafil 20 mg so với 35% trong nhóm dùng giả dược (P < 0.001). Tỷ lệ nam giới nhận được 1 liều tadalafil 20 mg giải quyết được hoàn toàn ED theo định nghĩa của IIEF-EF là 26 hoặc cao hơn là 59%, so với chỉ 11% ở nhóm dùng giả dược (Brock và các cộng sự, 2002a).
Trong bản cập nhật cho nghiên cứu của Brock và các đồng nghiệp, Carson và các cộng sự đã thực hiện một phân tích tổng hợp khác về tất cả các thử nghiệm tadalafil có sẵn, bao gồm 1112 nam giới trong 5 thử nghiệm từ nghiên cứu ban đầu của Brock và đồng nghiệp, cộng thêm 1215 nam giới từ 6 thử nghiệm đã hoàn thành (Carson và các cộng sự, 2004a). Thiết kế nghiên cứu, đo lường an toàn và phân tích thống kê tương tự đã được thực hiện, ngoại trừ những bệnh nhân dùng liều 2.5 mg và 5 mg trong 2 nghiên cứu trước đó được đưa vào phân tích bởi Brock và các đồng nghiệp không được Carson và các cộng sự đưa vào. Chỉ có liều 10 mg và 20 mg tadalafil được so sánh với giả dược. Độ tuổi trung bình là 56, và nguyên nhân của ED là 58% hữu cơ, 12% tâm lý và 31% hỗn hợp. Mức độ nghiêm trọng của ED ban đầu là nhẹ ở 36%, trung bình ở 27% và nặng ở 33% bệnh nhân. Bệnh kèm theo bao gồm 29% nam giới bị tăng huyết áp, 16% bị tăng lipid máu, 20% mắc đái tháo đường và 5% mắc bệnh mạch vành (Carson và các cộng sự, 2004a).
Các kết quả từ IIEF-EF, SEP-Q2 và SEP-Q3 được tóm tắt trong hình dưới. Có những sự cải thiện trung bình mạnh mẽ về điểm số IIEF-EF, với mức tăng 6.5 điểm với liều 10 mg tadalafil và 8.6 điểm với liều 20 mg tadalafil, so với chỉ 0.9 điểm trong nhóm dùng giả dược (P < 0.001) (Carson và các cộng sự, 2004a). Theo SEP-Q3, các nỗ lực giao hợp thành công đã được cải thiện 34% lên tổng 58% với 10 mg tadalafil và cải thiện 46% lên tổng 68% với liều 20 mg, so với cải thiện 8% lên tổng 31% ở nhóm dùng giả dược (P < 0.001). Khi các nỗ lực giao hợp thành công với tadalafil 20 mg được phân tầng theo thời gian sau khi dùng thuốc, tadalafil vẫn có hiệu quả gần như tương đương sau 36 giờ. Ở điểm kết thúc của thử nghiệm sử dụng GAQ, 71% và 84% bệnh nhân báo cáo tình trạng cương cứng được cải thiện tổng thể với 2 liều tadalafil tương ứng, so với 33% ở nhóm dùng giả dược (P < 0.001) (Carson và các cộng sự, 2004a). Phân tích tổng hợp thứ hai này của 11 thử nghiệm tadalafil đã kết luận tadalafil là một phương pháp điều trị rất hiệu quả và được dung nạp tốt với ED ở tất cả các mức độ nghiêm trọng và nguyên nhân với nam giới ở mọi lứa tuổi trong quần thể chung.
a Điểm số miền chức năng cương dương của IIEF.
b Câu hỏi 2: “Bạn có thể đưa dương vật của mình vào âm đạo của bạn tình không?”
c Câu hỏi 3 từ nhật ký SEP: “Sự cương cứng của bạn có kéo dài đủ lâu để giao hợp thành công không?”
* P < 0.001 so với giả dược.
Thử nghiệm trên ED khó điều trị
Trong 2 thử nghiệm được đề cập ở trên, quần thể bệnh nhân phần lớn là quần thể chăm sóc sơ cấp của những nam giới tương đối khỏe mạnh với ED ở các mức độ nghiêm trọng và nguyên nhân khác nhau. Ngược lại, 1 thử nghiệm đa trung tâm, mù đôi, ngẫu nhiên, đối chứng giả dược đã đánh giá cách mà tadalafil 20 mg cải thiện ED ở nam giới đến các trung tâm chăm sóc cấp ba với ED hữu cơ, nặng hơn và đi kèm nhiều tình trạng bệnh lý hơn so với các nghiên cứu trước đó (Carson và các cộng sự, 2005a).
195 nam giới đã được phân bổ để nhận tadalafil 20 mg hoặc giả dược lên đến 1 lần mỗi ngày trong 12 tuần với hướng dẫn dùng thuốc được đơn giản hóa (Carson và các cộng sự, 2005a). Hiệu lực được đánh giá bằng cách sử dụng IIEF-EF, SEP và GAQ. EDITS (Bản tóm tắt sự hài lòng trong điều trị ED) được cung cấp vào cuối thử nghiệm để đánh giá sự hài lòng của bệnh nhân và đối tác của anh ta. Mức IIEF-EF ban đầu trung bình là 13, với 33% người tham gia báo cáo ED nhẹ, 23% có ED trung bình và 51% có ED nặng lúc đầu. ED hữu cơ chiếm ưu thế với 81%, tiếp theo là 3% nam giới mắc ED do tâm lý và 16% là loại hỗn hợp. Các bệnh kèm theo bao gồm 41% tăng huyết áp, 36% tăng lipid máu, 21% đái tháo đường và 8% bệnh mạch vành (Carson và các cộng sự, 2005a).
Tadalafil 20 mg cải thiện IIEF-EF 6.9 so với -0.2 trong nhóm dùng giả dược (P < 0.001), cải thiện nỗ lực giao hợp thành công 34% so với 4.5% trong nhóm dùng giả dược (P < 0.001) và 73% bệnh nhân trong nhóm dùng tadalafil báo cáo sự cương cứng được cải thiện trên GAQ so với 15% ở nhóm dùng giả dược (P < 0.001). Điểm EDITS tổng là 67 ở nhóm dùng tadalafil so với 36 ở nhóm dùng giả dược (P < 0.001), mối tương quan đáng kể đã được quan sát giữa điểm số của bệnh nhân và bạn tình, cho thấy cải thiện sự hài lòng của bệnh nhân song song với cải thiện sự hài lòng của đối tác. Nghiên cứu này kết luận rằng ngay cả trong một quần thể chăm sóc bệnh nhân cấp ba có tỷ lệ hiện mắc ED hữu cơ, nặng và các tình trạng y khoa kèm theo cao hơn, tadalafil vẫn là một loại thuốc an toàn và dung nạp tốt giúp cải thiện đáng kể sự hài lòng về điều trị ED cho bệnh nhân và bạn tình (Carson và các cộng sự, 2005a).
Thử nghiệm về ED thứ phát trên bệnh nhân đái tháo đường
ED là một vấn đề phổ biến ở 1/3 nam giới mắc đái tháo đường type 2, và nó chịu trách nhiệm độc lập làm tăng gấp 3 đến 4 lần nguy cơ ED theo khảo sát trên 1460 nam giới đái tháo đường. ED liên quan chặt chẽ đến mức độ nghiêm trọng của đái tháo đường, với tỷ lệ mắc ED cao hơn ở bệnh nhân có tiền sử đái tháo đường kéo dài, bệnh nhân sử dụng insulin và bệnh nhân bị biến chứng vi mạch do đái tháo đường (De Barardis và các cộng sự, 2003).<