Bài viết Tổng quan về thời kỳ hậu sản: Các rối loạn và biến chứng được biên dịch bởi Bs Vũ Tài từ sách ” Tổng quan về thời kỳ hậu sản: Các rối loạn và biến chứng” của tác giả Pamela Berens, MD.
1.GIỚI THIỆU
Thời kỳ sau sinh, còn được gọi là hậu sản và “tam cá nguyệt thứ tư”, là khoảng thời gian sau sinh khi những thay đổi sinh lý của mẹ liên quan đến thai kỳ trở về trạng thái không mang thai. Nhiều rối loạn và biến chứng có thể xảy ra ngay trong thời kỳ hậu sản hoặc sau khi xuất viện.
Chủ đề này sẽ cung cấp một cái nhìn tổng quan về những vấn đề này và cách quản lý chúng. Nhiều vấn đề cụ thế, chang hạn như đánh giá và điều trị nhiễm trùng hoặc chảy máu quá mức, vấn đề cho con bú, tránh thai và trầm cảm, được thảo luận chi tiết trong các chủ đề riêng. Tống quan về những thay đối sinh lý bình thường và chăm sóc mẹ thường quy trong thời kỳ hậu sản cũng được cung cấp ở chủ đề riêng. (See “Overview of the postpartum period: Normal physiology and routine maternal care”.)
2.CÁC RỐI LOẠN VÀ BIÉN CHỦNG Ở GIAI ĐOẠN ĐẦU THỜI KỲ HẬU SẢN
Các rối loạn sau đây có thể xuất hiện trong vài ngày đầu sau sinh nhưng cũng có thể xuất hiện muộn hơn.
2.1.Các dấu hiệu và triệu chứng liên quan đến các tình trạng có thể đe dọa tính mạng
Đau đầu- Phụ nữ mang thai có các đặc điểm đau đầu được liệt kê trong bảng (bảng 1) có thể bị một rối loạn nền nghiêm trọng. Những phụ nữ bị đau đầu có một hoặc nhiều đặc điểm này, đặc biệt nếu không điển hình như cơn đau đầu thông thường của bệnh nhân, nên được đánh giá ngay để xem liệu có biến cố mạch máu thần kinh cấp tính cũng như tiền sản giật hay không.
Tuy nhiên, hầu hết các cơn đau đầu sau sinh không liên quan đến bệnh lý nền nghiêm trọng. Thời kỳ hậu sản được đặc trưng bởi những thay đối về nội tiết tố và sinh lý khác, thiếu ngủ, ăn uống thất thường, tâm lý căng thắng, mệt mỏi. Ngoài ra, nhiều phụ nữ được gây tê trục thần kinh đế chuyển dạ và sinh hoặc đã được sử dụng thuốc vận mạch (ví dụ, ergots). Đây là tất cả các yếu tố nguy cơ phát triển đau đầu.
Đánh giá và điều trị đau đầu sau sinh được xem xét riêng. (See “Headache in pregnant and postpartum -women”. section on ‘Diagnostic evaluation1 and “Headache in pregnant and postpartum women”, section on ‘Postpartum women’.)
Tăng huyết áp và/hoặc co giật – Tăng huyết áp và/hoặc co giật liên quan đến tiền sản giật/sản giật có the là biểu hiện lâm sàng đầu tiên trong thời kỳ hậu sản. Hầu hết, nhưng không phải tất cả, những trường hợp này xảy ra trong vòng 48 giờ sau sinh. (See “Preeclampsia: Clinical features and diagnosis” and “Eclampsia”.)
Điều trị tăng huyết áp nặng cấp tính (huyết áp tâm thu >160 mmHg và / hoặc huyết áp tâm trương >110 mmHg) luôn được khuyến nghị vì nó được cho là làm giảm nguy cơ đột quỵ ở mẹ và các biến chứng nghiêm trọng khác ở mẹ. (See “Treatment of hypertension in pregnant and postpartum women”.)
Magnesium sulfate là loại thuốc tiêu chuẩn được sử dụng đế ngăn ngừa cơn co giật sản giật ban đầu và tái phát. Các đối tượng để dùng liệu pháp và cách dùng được xem xét ở nơi khác. (See “Preecl ampstar~ Management and “prognosis”, “section on ‘Seizure prophylaxis’ and “Eclampsia”, section on ‘Prevention of recurrent seizures’.)
Băng huyết – Chúng tôi chẩn đoán băng huyết sau sinh ở phụ nữ bị chảy máu sau sinh nhiều hơn so với dự kiến và dẫn đến các dấu hiệu và/hoặc triệu chứng của giảm thể tích tuần hoàn ( bảng 2 ). Chẩn đoán có thể bị chậm trễ ở những phụ nữ có triệu chúng (ví dụ, những phụ nữ có nhịp tim nhanh, hạ huyết áp) khi không nhìn thấy chảy máu, chang hạn như chảy máu trong 0 bụng sau khi sinh qua âm đạo hoặc sau khi đóng bụng trong một cuộc sinh mố. Các yếu tố nguy cơ, nguyên nhân và quản lý được xem xét ở chủ đề riêng. (See “Overview of postpartum hemorrhage” and “Postpartum hemorrhage: Medical and minimally invasive management”.)
Lộn tử cung – Lộn tử cung (tức là xẹp đáy tử cung vào khoang nội mạc tử cung làm cho một phần hoặc toàn bộ tử cung bị lộn từ trong ra ngoài) là một biến chứng hiếm gặp của tử cung đang co hồi và là một cấp cứu sản khoa. Nếu không được nhận biết và điều trị kịp thời, lộn tử cung có thế dẫn đến chảy máu nặng và sốc. (See “Puerperal uterine inversion”.)
Khó thở hoặc đau ngực – Nên nghi ngờ thuyên tắc phối ở những bệnh nhân có một hoặc nhiều triệu chứng sau: khó thở khởi phát cấp tính, đau kiểu màng phổi và ho ra máu. Trong một nghiên cứu trên 38 thai phụ được xác nhận bị thuyên tắc phổi, khó thở (62%), đau ngực kiểu màng phổi (55%), ho (24%) và vã mồ hôi (18%) là bốn triệu chứng phổ biến nhất. (See “Pulmonary embolism in pregnancy: Epidemiology, pathogenesis, and diagnosis”.)
Bệnh cơ tim chu sinh (PPCM) được đặc trưng bởi khó thở, ho, khó thở khi nằm, khó thở kịch phát về đêm, phù chân và ho ra máu. Chẩn đoán ban đầu có thể bị chậm trễ vì các triệu chứng như mệt mỏi không đặc hiệu, khó thở và phù chân tương tự như những biểu hiện được quan sát thấy trong thai kỳ bình thường. Các yếu tố nguy cơ bao gồm tuổi cao, đa sản và chủng tộc da đen. Tử vong do PPCM thường do suy tim tiến triển, đột tử hoặc các biến cố thuyên tắc huyết khối. (See “Peripartum cardiomyopathy: Etiology, clinical manifestations, and diagnosis” and “Peripartum cardiomyopathy: Treatment and prognosis”.)
Đau ngực sau sinh có thể do bệnh tim mạch, phổi, tiêu hóa, cơ xương khớp hoặc do một triệu chứng biếu hiện của rối loạn hoảng sợ hoặc trầm cảm. Mặc dù tỷ lệ mắc bệnh tuyệt đối nhỏ, nhưng thuyên tắc phổi, nhồi máu cơ tim cấp và có thế là bóc tách động mạch chủ thường xảy ra hơn ở phụ nữ có thai/sau sinh so với phụ nữ không mang thai trong cùng độ tuôi. (See “Evaluation of the adult with chest pain in the emergency department”.)
Viêm đại tràng tối cấp – Clostridỉoỉdes (trước đây là Clostridium ) difficile có thể cư trú ở đường ruột người sau khi hệ vi khuẩn đường ruột bình thường bị thay đổi bởi liệu pháp kháng sinh, mà nhiều phụ nữ được điều trị trong khi sinh hoặc sau sinh [ 2 ]. Biểu hiện lâm sàng của viêm đại tràng tối cấp do c. difficile bao gồm tiêu chảy, đau vùng hạ sườn hoặc đau bụng lan tỏa, chướng bụng, sốt, giảm thể tích tuần hoàn, nhiễm axit lactic, giảm albumin máu, tăng creatinin và tăng bạch cầu rõ rệt (lên đến 40.000 bạch cầu/microL hoặc cao hơn). (See “Clostridioides (formerly Clostridium) difficile infection in adults: Clinical manifestations and diagnosis”, section on ‘Severe and fulminant colitis1.)
Phù nề âm hộ nặng gây đau – Các trường hợp phù nề âm hộ nặng hiếm gặp (cả một bên và hai bên) liên quan đến tử vong mẹ đã được báo cáo [ 3,4 ]. Trong một số trường hợp này, các thủ thuật sản khoa như sinh bằng forceps và rạch tầng sinh môn- trực tràng đã được thực hiện và gây chấn thương tầng sinh môn. Sự kết hợp giữa phù nề âm hộ ngày càng nặng hơn, chai cứng, đau tầng sinh môn, và tăng bạch cầu đáng kể (> 20.000/mm3) với công thức bạch cầu chuyển trái đặc trưng cho bệnh nhân có kết cục tử vong. Những trường họp này có thể đại diện cho các tình trạng nền đe dọa tính mạng, chang hạn như viêm cân mạc hoại tử hoặc nhiễm liên cầu nhóm A (GAS), mặc dù không phải lúc nào cũng có sốt cao và có thể xác định được ngay nguyên nhân nhiễm trùng do vi khuẩn.
Những bệnh nhân này cần được theo dõi chặt chẽ và điều trị theo kinh nghiệm sớm bằng kháng sinh phô rộng bao phủ GAS. (See “Pregnancy-related group A streptococcal infection”.)
Viêm cân mạc hoại tử phải được xem xét trong chân đoán phân biệt ở bệnh nhân sau sinh bị phù nề âm hộ và đau âm hộ dữ dội, đặc biệt khi đi kèm với sốt, ban đỏ, nhịp tim nhanh và hạ huyết áp. Phẫu thuật cắt lọc là bắt buộc. (See “Necrotizing soft tissue infections”.)
2.2.Các rối loạn và biến chứng không đe dọa đến tính mạng
Các rối loạn sau đây ở phụ nữ sau sinh thường không đe dọa đến tính mạng, mặc dù tỷ lệ mắc bệnh và tử vong nghiêm trọng (hiếm khi) có thể nằm trong phố bệnh và các biến chứng của nó.
Khó tiếu và bí tiếu – Bí tiếu sau sinh (PƯR) dường như là do tốn thương dây thần kinh thẹn trong trong quá trình sinh. Thời gian tiềm vận động tận cùng dây thần kinh thẹn trong kéo dài đã được chứng minh sau khi sinh và có thể kéo dài từ hai đến ba tháng sau sinh [ 5-7 ]. Hiếm khi phụ nữ bị rối loạn chức năng lâu dài.
• Định nghĩa – PƯR có nhiều định nghĩa khác nhau và do đó tỷ lệ được báo cáo trong khoảng rộng r 8-101. PƯR thực sự là tình trạng không đi tiểu tự nhiên trong vòng sáu giờ sau khi sinh qua âm đạo hoặc trong vòng sáu giờ sau khi rút ống thông tiểu sau khi sinh mổ . PUR kín đáo là tình trạng thể tích nước tiểu tồn dư trong bàng quang ít nhất là 150 mL sau khi đi tiểu tự nhiên, được xác nhận bằng cách đặt ống thông hoặc siêu âm.
• Các yếu tố nguy cơ – Gây tê ngoài màng cứng, đẻ con so, sinh dưới sự hỗ trợ của dụng cụ và cắt tầng sinh môn là những yếu tố nguy cơ của PƯR thực sự trong một tống quan hệ thống gồm 24 nghiên cứu quan sát.
• Các dấu hiệu lâm sàng – Bệnh nhân có thể không có triệu chứng hoặc có thể tích nước tiểu ít, tiểu tăng lần hoặc tiểu gấp, tia tiểu yếu hoặc ngắt quãng, ngập ngừng, đau hoặc
khó chịu ở bàng quang, tiểu tiện không tự chủ, căng tức khi đi tiếu, cảm giác tiểu không hết, hoặc không có cảm giác buồn tiểu [ 12 ]. cầu bàng quang có thể được sờ thấy hoặc nhìn thấy trên siêu âm; một máy siêu âm bàng quang tự động có sẵn công cụ đế tính toán thể tích nước tiếu tồn dư và có thể được sử dụng bởi các bác sĩ lâm sàng không được đào tạo về siêu âm.
• Quản lý – Điều trị PƯR thực sự bằng cách đặt ống thông tiếu ngắt quãng. Các liệu pháp dược lý đều không hiệu quả. Đặt ống thông được chỉ định nếu có thể sờ thấy cầu bàng quang trên thành bụng và sản phụ không thế đi tiếu hoặc chỉ đi tiếu được một thế tích nhỏ gợi ý tình trạng tràn nước tiêu.
Không có quy trình chuân cho việc đặt ống thông tiếu. Nhìn chung, đặt ống thông tiếu được thực hiện sau mỗi bốn đến sáu giờ hoặc khi bệnh nhân muốn đi tiếu nhung không thế đi được. Nếu bệnh nhân có thế đi tiếu được một thế tích nhở, thì sản phụ sẽ được hướng dẫn thực hiện tự thông tiểu đế xác định thế tích tồn dư.
Việc ngừng đặt ống thông là hợp lý khi lượng nước tiểu tồn dư <150 mL và bệnh nhân không còn các triệu chứng khó tiểu đáng kể. Các tiêu chí này là kinh nghiệm; không có tiêu chuẩn dựa trên bằng chứng [ 10,13 ]. Dự phòng kháng sinh là không cần thiết khi tự thông tiểu ngắt quãng [ 14 ]. (See “Postoperative urinary retention in women”, section on ‘Clean intermittent catheterization’.)
• Tiến triển – Bí tiểu thường là một rối loạn tự giới hạn, có thể được kỳ vọng tự hết trong vòng một tuần ở hầu hết bệnh nhân [ 10,15 ]. Trong các nghiên cứu quan sát trên những bệnh nhân bị PƯR kín đáo, 96 đến 100% sản phụ có thể tích tồn dư sau khi đi tiểu, trở về bình thường trong vòng hai đến năm ngày [ 10,11 ].
Trĩ có triệu chúng – Trĩ có triệu chứng thường gặp sau sinh, xảy ra ở khoảng một phần ba phụ nữ [ 16-18 ]. Phương pháp điều trị tùy thuộc vào các triệu chứng cụ thế (ngứa, chảy máu, đau hoặc sa búi trĩ); các lựa chọn thuốc được tóm tắt trong bảng ( báng 3 ) và được thảo luận chi tiết hơn ở chủ đề riêng. (See “Home and office treatment of symptomatic hemorrhoids”.)
Sản dịch hôi – Nguyên nhân phổ biến nhất gây sản dịch hôi là vô tình bỏ sót bông gạc tại chỗ sau khi sửa chữa vết cắt hoặc vết rách ở tầng sinh môn. Việc loại bỏ các dị vật sẽ dẫn đến hết tình trạng chảy dịch hôi có mủ.
Mất tự chủ – Tinh trạng mất tự chủ tiểu tiện, trung tiện, đại tiện sau sinh thường gặp ở giai đoạn ngay sau sinh và thường cải thiện trong những tuần tiếp theo, nhưng có thế tồn tại lâu dài.
Phụ nữ nên được hỏi về tình trạng mất tự chủ vì họ có thể không tự nói ra vấn đề này.
Đánh giá và điều trị mất tự chủ tiểu tiện và hậu môn được thảo luận ở chủ đề riêng.
• (See “Effect of pregnancy and childbirth on urinary incontinence and pelvic organ prolapse” and “Fecal and anal incontinence associated with pregnancy and childbirth: Counseling, evaluation, and management”.)
• (See “Evaluation of females with urinary incontinence” and “Treatment of urinary incontinence in females”.)
• (See “Obstetric anal sphincter injury (OASIS)”.)
Giãn tĩnh mạch chi dưới có triệu chứng – Mang thai là một yếu tố nguy cơ của giãn tĩnh mạch, có thể xuất hiện và trở nên có triệu chứng bất cứ lúc nào trong thời kỳ trước sinh hoặc sau sinh [ 20,21 ]. Nâng cao chân, tập thể dục và liệu pháp chén ép giúp cải thiện vận chuyển oxy đến da và các mô dưới da, giảm phù nề, giảm viêm và chèn ép các tĩnh mạch bị giãn. Giãn tĩnh mạch là một yếu tố nguy cơ của viêm tĩnh mạch nông và huyết khối. Đánh giá và quản lý được thảo luận chi tiết ở chủ đề riêng. (See “Overview of lower extremity chronic venous disease”.)
Phù nề âm hộ nhẹ – Phù nề âm hộ nhẹ không phải là hiếm gặp sau khi sinh và trong hầu hết các trường hợp, có thể được xử trí bằng cách chườm đá và các biện pháp giúp dễ chịu khác để làm giảm các triệu chứng. Nó có liên quan đến giai đoạn chuyến dạ thứ hai kéo dài, tiền sản giật và sử dụng thuốc giảm co để điều trị chuyển dạ sinh non.
Sau khi hết phù nề môi âm hộ hai bên, có thế xảy ra tình trạng dính môi âm hộ nhưng rất hiếm gặp.
Hiếm khi, phù nề âm hộ có thế là biếu hiện của phù mạch di truyền. See “An overview of angioedema: Clinical features, diagnosis, and management”.)
Sốt/nhiễm trùng/biến chứng vết thưong – United States Joint Commission on Maternal Welfare định nghĩa sot sau sinh khi nhiệt độ miệng >38,o°c (>100,4°F) vào bất kỳ hai trong số 10 ngày đầu sau sinh, không bao gồm 24 giờ đầu [ 24 ]. Loại trù’ 24 giờ đầu vì trong giai đoạn này thường gặp sốt nhẹ và thường tự khỏi, đặc biệt là sau sinh qua âm đạo. Định nghĩa này đã được sử dụng trong nhiều thập kỷ.
Các tình trạng sau đây cần được xem xét trong chẩn đoán phân biệt của sốt sau sinh và thường dễ dàng phân biệt bằng bệnh sử và khám thực thể, với các nghiên cứu hình ảnh và đánh giá cận lâm sàng bổ sung, khi được chỉ định:
• Nhiễm trùng vết mổ (ví dụ: rạch tầng sinh môn, vết rách, vết mổ ở bụng) – Trong một tống quan hệ thống, tỷ lệ nhiễm trùng vết thương tầng sinh môn liên quan đến sinh đẻ dao động từ 0,1 đến 24,0% và tỷ lệ toác vết thương dao động từ 0,2 đến 25,0% [ 25 ].
Nhiễm trùng tầng sinh môn và sau đó toác vết rách hoặc vết cắt tầng sinh môn đã được sửa chữa trước đó thường khu trú ở da và mô dưới da. Khi khám, vùng này có vẻ sưng và đở với chảy dịch tiết có mủ. Điều trị bao gồm mở vết thương, dẫn lưu, tưới rửa và cắt lọc dị vật và mô hoại tử. Kháng sinh là không cần thiết trừ khi có viêm mô tế bào đi kèm. Vùng này sẽ lành lại nhờ các mô hạt, nhưng các khiếm khuyết lớn có thể được khâu lại khi bề mặt vết thương không còn dịch tiết và được bao phủ bởi mô hạt màu hồng. (See “Approach to episiotomy1′, section on ‘Complications’ and “Delayed surgical management of the disrupted anal sphincter”.)
Nhiễm trùng vết thương được chẩn đoán ở 2,5 đến 16 % bệnh nhân sau sinh mổ [ 26 ], thường là bốn đến bảy ngày sau thủ thuật. Quản lý các biến chứng vết thương được xem xét ở chủ đề riêng. (See “Basic principles of wound management” and “Cesarean delivery: Postoperative issues”, section on ‘Wound complications’.)
• Viêm nội mạc tủ’ cung – Các dấu hiệu lâm sàng chính, có ở hầu hết các bệnh nhân, bao gồm sốt sau sinh, nhịp tim nhanh song song với sự gia tăng nhiệt độ, đau bụng dưới ở đường giữa và tử cung đau khi sờ nắn. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng và phần lớn dựa vào sự hiện diện của sốt sau sinh mà không thể quy cho một căn nguyên khác sau khi hỏi tiền sử và khám thực thế kỹ lưỡng. (See “Postpartum endometritis”.)
• Viêm vú hoặc áp xe vú – Viêm vú ở phụ nữ đang cho con bú thường biểu hiện như một vùng vú chắc, đỏ và mềm với nhiệt độ của mẹ > 38,5°c. Một vùng vú mềm, có dấu hiệu ba động gợi ý nhiều đến tình trạng áp xe. Có thế có các than phiền toàn thân và bao gồm đau cơ, ớn lạnh, khó chịu và các triệu chứng giả cúm. Chẩn đoán phân biệt bao gồm tắc tia sữa, nang sữa và hiếm khi, ung thư vú dạng viêm. (See “Common problems of breastfeeding and weaning”, section on ‘Breast infections’.)
• Nhiễm trùng đường tiết niệu (viêm bàng quang, viêm thận bể thận) – Các triệu chứng viêm bàng quang bao gồm tiểu khó, tiểu tăng lần, tiểu gấp, đau trên xương mu và/hoặc tiểu máu nhưng không sốt nếu nhiễm trùng chỉ ở bàng quang. Viêm thận bể thận có thế đi kèm với viêm bàng quang nhung đặc trưng bởi sốt (> 38°C), ớn lạnh, đau thắt lưng, đau góc sườn sống khi sờ nắn và buồn nôn/nôn. (See “Acute complicated urinary tract infection (including pyelonephritis) in adults”.)
• Viêm tĩnh mạch vùng chậu huyết khối nhiễm khuẩn – Bệnh nhân có một trong hai hội chứng khá đặc biệt (see “Septic pelvic thrombophlebitis”):
• Bệnh nhân bị viêm tĩnh mạch buồng trứng huyết khối thường có biểu hiện bệnh cấp tính, với sốt và đau bụng trong vòng một tuần sau khi sinh hoặc phẫu thuật; huyết khối tĩnh mạch buồng trứng (thường ở bên phải) đôi khi có thể được nhìn thấy trên hình ảnh X quang.
• Bệnh nhân bị viêm tĩnh mạch sâu vùng chậu huyết khối nhiễm khuân biếu hiện kín đáo hơn với sốt đơn thuần ở giai đoạn đầu sau sinh hoặc sau phẫu thuật và đặc biệt là không có đau bụng hoặc đau vùng chậu khi sờ nắn, và hình ảnh X quang thường không xác định được huyết khối của một tĩnh mạch cụ thể.
• Nhiễm trùng c. difficile – Tiêu chảy do c. difficile đã được báo cáo trong thai kỳ và phổ biến hơn ở phụ nữ sau sinh [ 27,28 ]. Biểu hiện bệnh bao gồm tiêu chảy tóe nước lên tới 10 hoặc 15 lần mỗi ngày kèm theo đau quặn bụng dưới, sốt nhẹ và tăng bạch cầu. Những triệu chứng này thường xảy ra trong trường hợp sử dụng kháng sinh gần đây ( bảng 4 ).
Điều trị ban đầu thường bao gồm ngừng dùng kháng sinh gây bệnh và bắt đầu điều trị bằng đường uống với vancomycin , fidaxomicin hoăc metronidazole ( bảng 5 ). Chấn đoán và điều trị được thảo luận chi tiết ở chủ đề riêng. (See “Clostridioides (formerly Clostridium) difficile infection in adults: Clinical manifestations and diagnosis” and “Clostridioides (formerly Clostridium) difficile infection in adults: Treatment and prevention”.)
• Sốt do thuốc – Sốt do thuốc thường là một chẩn đoán loại trừ. Có thể có phát ban.
(See “Drug fever”.)
Bệnh lý thần kinh -Bệnh lý thần kinh sau sinh gây biến chứng khoảng 1% các ca đê . Khiếm khuyết thần kinh sau sinh thường là bệnh lý đơn dây thần kinh do chèn ép, căng giãn, cắt ngang hoặc tốn thương mạch máu. Dây thần kinh thường bị tổn thương nhất là dây thần kinh đùi bì ngoài, nhưng tổn thương cũng có thể ảnh hưởng đến dây thần kinh đùi, dây thần kinh mác, đám rối thần kinh thắt lưng – cùng, dây thần kinh hông to và dây thần kinh bịt [ 29 ]. Hiếm khi, các triệu chứng bệnh lý thần kinh có thể phản ánh các biến chứng trực tiếp do gây tê trục thần kinh, nh